Cấm đăng tin quảng cáo các lớp học, khoá học, hội thảo, tìm học sinh... Các bài quảng cáo sẽ bị xoá.
|
Trang 2/2
|
[ 16 bài ] |
|
Vua Bà Triệu Ẩu - Nguyễn Tử Siêu
14.09.2018, 14:05 |
|
V.I.P
|
|
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36 Tuổi: 35 Bài viết: 35935 Được thanks: 6059 lần Điểm: 9.62
|
|
 Re: [Xuất bản - Lịch sử] Vua Bà Triệu Ẩu - Nguyễn Tử Siêu - Điểm: 10
HỒI THỨ IX
Lấy huyện thành, Bà Vương dụng kế, Phấn nghĩa dũng, Quốc Đạt dấy quân
Nói về Quốc Thành thúc quân xồ sang đánh giết quân Ngô và định sấn quân đuổi bừa vào thành, nhưng bị tên ở trên thành bắn riết quá phải hồi lệnh.
Thị Trinh ghi vào sổ công lao rồi làm tiệc mừng công.
Từ hôm ấy trở đi, ròng rã đến bốn năm ngày mà viên Huyện lệnh Nông Cống cứ một mực cố thủ. Đã mấy lần Thị Trinh sai tướng đến phá thành, song bị quân Ngô bắn riết quá phải thu quân về…
Thị Trinh đang lo vì nếu quân Ngô cứ cố thủ mãi thì sẽ hết lương, thật là nguy cấp…
Bỗng nghĩ ra một mẹo bèn sai đánh trống hội các tướng lại họp để bàn việc cơ mật.
***
Vừa mới trống canh hai mà trại Ngô đã lao xao cả lên. Viên phòng thành đánh trống phi báo quan Huyện lệnh và sai quân bắn tên ra.
Thì ra có gì đâu. Một toán quân Nam đến phá thành.
Bọn quân Ngô được lệnh bắn tên ra rào rào.
Nhưng vừa bắn được một lát thì toán quân ấy đã đi đâu mất mà đèn đuốc đều tắt ngấm tắt ngầm.
- Những quân Nam ra chó má thật. Làm mất cả giấc ngủ ngon lành của mình. - Ấy là lời viên phòng thành quan chửi rủa lẩm bẩm.
Thì ra có gì đâu. Vừa mới yên nghỉ được một lát thì quân Nam đã nheo nhéo thách đánh. Vừa sai bắn tên ra được một ít thì quân Nam đã biết đi mất.
Cứ như thế luôn ba đêm, quân Ngô mất hết cả khí lực, tuy đi tuần mà mắt nhắm mắt mở, chỉ lo cho hết phiên canh để chúi159 một xó.
Đến đêm thứ tư, canh mãi đến canh ba, nửa canh ba mà vẫn không thấy gì, quan phòng thành đã tự đắc nói:
- Đã bảo mà. Không ăn thua nên mới chịu im ả thế chứ. Thôi, cho chúng bay ngủ cho lại sức.
Bọn quân được lệnh chỉ còn sức dư mà quỵ xuống ngáy khò khò quên cả trời cả đất.
Trong khi ấy một bóng đen nhảy vọt lên mặt thành rồi lần xuống cửa thành chặt vỡ khóa, hạ điếu kiều160 xuống. Thế mà tụi quân vẫn li bì như chết, mãi đến khi tiếng người reo, ngựa hí, ồn ào vang động thời mới giật mình tỉnh dậy, nhưng ôi thôi không còn chút lực thừa nào nữa mà đối phó, chỉ còn có cách chạy trốn, nhưng chỗ nào cũng có quân Nam đành chỉ giơ cổ ra chịu chết. Thế là huyện Nông Cống đã thuộc về tay Nhụy kiều tướng quân rồi. Khi ấy Bà đã cưỡi trên con voi tiến thẳng vào thành, rồi sai người đốt đuốc đi tìm viên Huyện lệnh nhưng viên Huyện lệnh đã trốn biệt đi đằng nào rồi. Bà liền truyền quân sĩ: hễ quân Nam thì tha mà quân Ngô thì giết. Được Nông Cống, Bà Thị Trinh làm nơi căn bản, còn An Phổ thời cho Triệu Quốc Thành cai quản, rồi mở tiệc khao quân, trên dưới rất là vui vẻ…
***
- Có được tin đích xác không?
- Dạ đích xác lắm, cô hai đóng quân ở đồi An Phổ ạ!
- Biết rồi! Nhưng còn sao nữa?
- Còn… còn để con nói.
Trong một cái nhà lá cao, một chiếc sập ở giữa, hai bên hai hàng ghế tràng kỷ. Trên chiếc sập một người đàn ông, ăn mặc võ trang mặt sạm đen vì nắng, đôi mắt sáng quắc tay cầm thanh bảo kiếm, trừng trừng nhìn vào một người quỳ dưới. Trên hai dãy tràng kỷ, hai dãy người toàn mặc võ trang mầu chàm, chân đi dép gai, tay người nào cũng lăm lăm cầm những thanh trường kiếm sáng như sương tuyết.
Im lặng, những người đó không nói nửa câu, nhìn vào người quỳ gần sập hình như ẩn một sự gì huyền bí.
Người ngồi trên sập vẻ mặt trầm ngâm nhìn vào người quỳ dưới, đôi mắt đưa đi đưa lại hình như có ý hỏi ngầm. Người ấy… Chắc độc giả không biết là người nào, nhưng độc giả cũng nên biết không phải ai xa lạ và chính là Triệu Quốc Đạt, anh Thị Trinh.
Nguyên lai Quốc Đạt sau khi thấy em đi, một mình ở nhà nghĩ đến việc nước, việc dân, rất lấy làm lo lắng. Hàng ngày tụ tập được hơn mười người toàn là những người dũng sĩ để mưu toan việc nước. Công việc đã tạm thành, Quốc Đạt liền yết bảng chiêu mộ quân sĩ. Trong ba hôm dân chúng theo đã ngót 1.000. Quốc Đạt liền tự mình làm Bình Ngô Đại nguyên soái rồi chia mỗi người một toán quân để huấn luyện, ròng rã nửa tháng trời, quân sĩ đã tạm thành kỷ luật. Hôm đó bỗng nghe thám tử về báo ở An Phổ có một người con gái tự xưng là An Phổ Phục quốc quân Thống tướng Triệu, lại có tên là Nhụy Kiều tướng quân nữa, quân sĩ và tướng tá rất nhiều, những tin đó cũng là hàm hồ chưa rõ. Muốn cho đích thực, Quốc Đạt liền sai một thám tử đi dò xét tình hình.
Chiều hôm ấy, tên thám tử đã về đến trại. Quốc Đạt liền truyền vào trướng hỏi, tên thám tử thở hổn hển nói mấy câu trên mà ký giả vừa thuật, Quốc Đạt nóng lòng muốn biết nên cứ hỏi dồn, tên thám tử nói:
- Thưa chủ soái, con đi đến An Phổ, lẩn vào trong rừng tìm cổng trại quân, đi mãi không thấy, đang đi bỗng nghe mấy tiếng nói hình như tiếng của quân nào: “Đức bà tên họ là gì nhỉ? Mà ở đâu lại đây?”, lại thấy tiếng đáp: “Tôi nghe quan Chánh tiên phong Triệu Quốc Thành là em Đức bà, mà Đức bà là Triệu Thị Trinh”.
“Nhưng ở đâu nhỉ? - Ở gần đây mà, nghe cũng ở vùng Nông Cống này thì phải.” Con nghe thấy vậy thời mừng rỡ chắc là cô hai đã khởi nghĩa ở đấy, nên con vội về báo chủ soái biết.
Quốc Đạt nghe nói, vẻ mặt đang lo lắng biến ra vui mừng bảo tên thám tử:
- Thôi, cho ra thám thính có việc gì quan hệ nói cho ta biết! Nghe!
Rồi ngoảnh trông hai trướng, cười mà rằng:
- Đó các anh em biết, ta chắc em ta thế nào cũng khởi nghĩa, mà chỉ nay mai em ta sẽ dấy quân thôi.
Bây giờ…
Nói đến đấy cúi xuống, tay tì vào trán ngẫm nghĩ: - Em ta thật là một người có chí khí, biết đâu nay mai quân Ngô sẽ bạt vía kinh hồn. Bây giờ ta cần phải đem toán quân để giúp em ta mới được. - Nghĩ đến đấy, ngửng đầu lên rồi dõng dạc cất tiếng:
- Anh em đã có lòng yêu quý mà tôn ta lên làm chủ soái, vậy ta có mấy lời, cần phải tuyên bố để anh em cùng biết.
Nói đến đấy, chàng ngừng bặt, đôi mắt tinh anh sáng quắc đưa đi đưa lại nhìn vào hàng tướng hình như muốn hỏi dò ý tứ. Các tướng thấy Quốc Đạt hỏi thời đều đứng dậy đồng thời giơ trường kiếm lên ngang trán mà nói:
- Chủ soái đã truyền anh em tôi xin tuân mệnh.
Quốc Đạt thấy vậy tỏ ý vui mừng, đứng dậy tay cầm bảo kiếm đi lại trước mặt các tướng, rồi ra đứng giữa cất tiếng nói to:
- Quân tướng cần phải có kỷ luật, tướng phải biết lấy lượng khoan hồng mà bao dung, việc trái thì khuyên bảo, đừng đánh đập, khi hành quân phải đi đứng cho tề chỉnh, quân phải kính phục tướng mà theo lệnh. Các anh em đã biết mà theo ta làm việc này, vậy cần nhất phải đồng tâm hiệp lực, đừng có thấy người hơn mình mà tức, người kém mình mà kiêu ngạo. Ấy chỉ có thế thôi, các anh em nghe ta để theo đuổi công việc tiến hành…
Nói xong, truyền đánh một hồi trống, rồi ra giáo trường điểm duyệt quân sĩ.
Ra đến nơi đã thấy mười toán quân. Vận phục khác nhau, mười viên tướng đã xếp hàng tề chỉnh, yên lặng không một tiếng ho, chàng đưa mắt trông các tướng đều tuốt gươm trần đi lại chỉ huy quân sĩ. Chàng liền lên đài cầm cờ lệnh vẫy một cái, mười toán quân bỗng liền nhau lại rồi răm rắp tiến đến dưới chân đài vái một cái rồi đồng thanh hô:
- Nguyên soái vạn tuế. Phục quốc quân vạn tuế.
Dứt tiếng hô. Lại yên lặng không nghe thấy một tiếng gì, chỉ trừ những trận gió thổi ào ào, với những tiếng beo gầm, vượn hú từ đằng xa vẳng lại hình như báo hiệu. Trời gần tối, Quốc Đạt đứng trên đài nói to:
- Sáng mai đúng giờ Dần, quân tướng phải tụ tập ở giáo trường nghe lệnh truyền.
Dứt tiếng, cầm chiếc cờ lệnh phất một cái, mười toán quân lui ra, rồi rời rạc mỗi toán đi một ngả. Chỗ giáo trường lại im lìm theo thời gian mà tối hẳn.
Quốc Đạt xuống đài lên con ngựa Ô vân phi thẳng về đại đường yên nghỉ.
Sáng hôm sau, vừng thái dương còn lấp ló sau rặng tre xanh đằng phương trời xa tắp, chiếu những ánh vàng tía lên những mỏm đồi và biến thành một mầu vàng đỏ sặc sỡ.
Trong đại trại của Quốc Đạt đã nhộn nhịp người đi lại hùng dũng uy nghiêm, bỗng ở trung quân trướng có một hồi trống cái vang lừng, rồi một hồi chiêng rền rĩ nối theo, những người đi lại nghe hiệu vội đứng xếp hàng cả ở ngoài trướng, chỉ trong chốc lát chỗ trung quân trướng đang yên lặng đã biến thành một nơi náo nhiệt, những tiếng rì rầm làm vang động cả một khu rừng. Bỗng ở trong trướng bước ra một tên quân cầm loa nói to:
- Quân tướng im lặng ra giáo trường. Chủ soái có lệnh truyền.
Dứt tiếng hô, đồng thời bọn quân sĩ im phăng phắc kéo nhau ra giáo trường chờ lệnh. Lại chỉ trong chốc lát một hồi trống khẩu, một hồi kiểng tiếp theo, rồi ở trong trướng đi ra, Quốc Đạt ngồi trên mình con ngựa Ô vân, tay phải cầm bảo kiếm, tay trái cầm cờ lệnh từ từ tiến thẳng về phía giáo trường, đi sau mười viên thân tướng đều cưỡi ngựa mặc võ phục mầu đen, chân đi dép gai quấn xà cạp, tay cầm trường kiếm, yên lặng theo vị chủ tướng ra giáo trường lĩnh mệnh.
- Anh em ơi! Chủ soái đã ra!
Dứt tiếng hô rồi từ mồm nọ truyền sang mồm kia ồn ào, viên giám quân quan vội truyền loa, tức thời im phăng phắc, tất cả quân sĩ đều răm rắp xếp hàng, rồi đều một loạt cúi xuống cất tiếng hô:
- Nguyên soái vạn tuế.
Chính lúc đó Triệu Quốc Đạt đã giơ thanh bảo kiếm lên ngang mặt rồi xuống ngựa bước lên đài, mười viên tướng cũng lần lượt theo gót bước lên xếp hàng đứng chờ nghe lệnh. Quốc Đạt đứng trên đài trông xuống quân sĩ đông nghìn nghịt, tuy vậy vẫn im phăng phắc không một tiếng rì rầm, hai bên đài dãy thông theo chiều gió mà kêu lên những tiếng âm thầm và rền rĩ, hàng dương liễu yểu điệu uốn éo trước đài, lúc ngả, lúc nghiêng. Rào rào những tiếng lá rụng của những cây trám cây bàng, ngoài chuồng ngựa, vài trăm con, vó nện xuống sàn và đất sỏi cồm cộp đều nhau, mồm hí vang lừng cả một khu rừng âm u ảm đạm. Và khi ấy trên đài, Quốc Đạt ngả lưng trên chiếc ghế trải da hổ, đưa tầm con mắt nhìn qua hàng quân sĩ một lượt rồi ngoảnh lại nói với các tướng:
- Các tướng xem quân ta đã có kỷ luật lắm rồi chứ, bây giờ ta cần phải tiến quân đi đến An Phổ để hội quân với em ta. Vậy các ngươi phải nhất nhất theo lệnh ta truyền.
Dứt tiếng, mười viên tướng đồng thanh “Dạ” một tiếng, Quốc Đạt nói tiếp:
- Vậy Chánh tiên phong Lê Hưu dẫn 300 quân đi trước cùng Tả dực Phí Quỳnh, Hữu dực Phan Xuân Chính. Còn ta cùng Phó tiên phong Vũ Khuê, Hổ oai tướng quân Trương Quế và Lê Quý Lương, còn Hậu quân thời Phan Trung Doãn, Lê Phượng thống lĩnh. Coi việc lương thảo thời cũng Khắc Phục, Nguyễn Vận đảm nhiệm.
Dứt nhời, các tướng đều nói:
- Chủ tướng đã truyền, chúng tôi xin tuân mệnh.
Rồi cũng nhau kéo xuống, lúc đó Quốc Đạt đã xuống đài chỉ huy quân sĩ kéo thẳng ra ngoài trại tiến thẳng về đồi An Phổ…
- Cái gì mà ồn lên thế? Hãy nói ta nghe nào?
- Bẩm… Bẩm con vừa thám được việc xin trình chủ soái.
Một người ngồi trên con ngựa, tay cầm chiếc tử kim thương, đi sau hai viên tướng dẫn một toán quân hình như đang đi mà dừng lại, một người đứng thở hổn hển nói ra dáng mệt nhọc, nét mặt vừa lộ vẻ vui mừng lại có ý như sợ hãi. Hai bên đường toàn là rừng núi hiểm trở mà trời đã sâm sẩm tối. Người ngồi trên ngựa kia chẳng phải nói ai cũng biết là Quốc Đạt vậy.
Quốc Đạt dẫn quân đi đến đấy thời trời đã gần tối, bỗng thấy một tên thám tử từ xa đi lại nói có thám được một việc thời liền dừng quân lại để hỏi căn do, tên thám tử vừa thở vừa nói:
- Con gặp mấy tên quân ở An Phổ đi qua nói chuyện rằng: cô hai đem quân sắp lấy được huyện thành Nông Cống và… sắp sửa…
Quốc Đạt nóng biết hỏi dồn: - Và… và thế nào?
- Và hình như quân Ngô nay khiếp sợ rồi.
Quốc Đạt nghe nói, mỉm cười mà rằng:
- Thôi được, cho lui!
Rồi lại tiến, lần mò theo đường hiểm hóc, tuy rằng đêm tối nhưng đội quân nghĩa dũng vẫn hăng hái không dừng, đằng xa những đám mây đen sẫm hình như thấy trời còn hơi sáng mà muốn che lấp thêm cho tối hẳn. Đêm hôm ấy…
Bỗng gió thổi vù vù dường như chuyển động một góc trời: cát bay lá rụng, cây cối lung lay, rầm rầm như muốn bật tung cả rễ, ngọn cây nghiêng ngả đập vào nhau vật vã tưởng như muôn nghìn ngọn thác cùng chảy xuống.
Mưa như trút, hai bên núi, nước mưa chảy xuống ào ào làm át hẳn tiếng cầu kêu của những loài cầm thú sợ oai trời.
Mưa vẫn to, gió vẫn thổi dữ dội không ngớt, thế mà đội quân nghĩa dũng cảm tử quân vẫn hăng hái lên đồi xuống núi, không chút sờn lòng tuy quần áo bị nước mưa ướt hết và bị những cơn gió thổi khiến lạnh buốt thấu xương mặc dầu, họ vẫn đi không chút sờn lòng. Quốc Đạt mình mặc áo giáp đẫm ướt ngồi trên con ngựa Ô vân, hai mắt đăm đăm nhìn về phía trời xa tắp. Bỗng thấy một bóng đen ngồi trên ngựa phi như bay tiến lại trước mặt, rồi bóng đen ấy xuống ngựa rút kiếm giơ ngang trán dõng dạc nói to:
- Thám tử Trần Lâm xin có lời trình chủ tướng!
Quốc Đạt nghe nói, ra hiệu dừng quân, rồi cất tiếng hỏi:
- Trần Lâm! Mi báo việc chi hử?
Dứt nhời, nói:
- Bẩm chủ soái! Tiểu tướng thám được tin quân khởi nghĩa ở An Phổ đã lấy được huyện thành Nông Cống.
Sung sướng, Quốc Đạt giơ tay cho Trần Lâm lui vào hàng tướng, rồi thúc quân tiến bước. Trời đã gần sáng, xa xa vẳng nghe các thôn trang những tiếng gà gáy chó sủa, đồng thời một loạt hình như thức tỉnh đám dân quê. Đoàn nghĩa dũng vẫn đi. Lúc bấy giờ màn sương lạnh lẽo còn lũng vũng quanh sườn núi. Đằng phía Đông, một ánh sáng đỏ hồng tươi tốt ấm áp đã muốn dần dần nhô lên. Đàn chim khuyên mới dậy, đang vui vẻ rỉa các hoa quả đỏ ối, tiếng quạ kêu, tiếng vượn hót làm vang động một khu rừng.
Bỗng trong khoảng lạnh lẽo âm thầm, một hồi trống đằng xa đưa lại. Vừng kim ô đã lên cao rọi những ánh nắng gay gắt vào khoảng mịt mù xa thẳm và hiện ra một tòa thành đồ sộ, huyện thành Nông Cống, Quốc Đạt tỏ vẻ vui mừng hô quân rảo bước, chỉ còn cách thành 15 dậm. Quốc Đạt liền cho quân dừng lại hạ trại. Rồi viết một lá thư cho em, sai tì tướng Lê Vân tiến thẳng vào thành…
|
|
|
 |
|
|
 |
14.09.2018, 14:06 |
|
V.I.P
|
|
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36 Tuổi: 35 Bài viết: 35935 Được thanks: 6059 lần Điểm: 9.62
|
|
 Re: [Xuất bản - Lịch sử] Vua Bà Triệu Ẩu - Nguyễn Tử Siêu - Điểm: 10
HỒI THỨ X
Tỏ oai thần Triệu Quốc Thành chém tướng Ngô, Lấy Đô Bàng Phan Thái Tâm dùng kế lạ
Nói về Nhụy Kiều tướng quân Triệu Thị Trinh sau khi đã lấy được huyện Nông Cống, liền mở tiệc khao quân rất là vui vẻ. Hôm đó trời vừa tảng sáng, bà liền hạ lệnh quân sĩ ra giáo trường để điểm duyệt. Lúc Thị Trinh ngồi trên đài trông xem tướng tá, bỗng thấy một hồi trống ở trung quân trướng, bà giật mình đứng dậy, phất cờ bảo quân sĩ hãy về trại nghỉ ngơi, rồi cùng các tướng về thẳng trung quân trướng. Khi vào tới trướng, trông thấy hai tên quân giữ một người mặc võ trang mầu chàm, bên cạnh dắt thanh mã tấu đứng sững ở giữa trướng, nét mặt vui vẻ không chút gì là sợ hãi. Thị Trinh liền quát:
- Đứa nào! Quân bay! - Hai tên quân liền quỳ xuống:
- Chúng tôi canh ở cổng thành, bỗng thấy người này rún mình nhẩy qua hào, vì lúc đó chưa hạ điếu kiều, rồi người này rún mình nhẩy lên mặt thành, lại băng mình xuống đất và ung dung đi thẳng vào đại trướng. Chúng tôi nghi là quân gian tế, nên cùng nhau chạy lại bắt hỏi, thì người này cười khanh khách giơ tay ra chịu trói. Chúng tôi hỏi tên, thời người này quát lên rằng: “Lũ mi đừng láo xược”, rồi cứ mặc cho chúng tôi dẫn vào đây, vậy chúng tôi phải báo hiệu để Đức bà về định liệu.
Thị Trinh nghe vậy thời mỉm cười bảo:
- Thôi cho hai chúng ngươi đi ra.
Hai tên quân vâng mệnh đi ra.
Rồi Thị Trinh lên ngồi ghế giữa, truyền người kia quỳ xuống và nói:
- Người kia! Mi là hạng người nào mà dám táo gan ngang nhiên vào đây hử?
Người nọ quỳ xuống nói:
- Tôi không phải là quân do thám chi cả. Đức bà muốn biết xin xem bức thư này là đủ.
Nói xong thò tay vào bọc rút lá thư đứng dậy đưa cho Thị Trinh. Thị Trinh xem xong mỉm cười mà rằng:
- Vậy nhà ngươi là Lê Vân, tì tướng của đại huynh ta?
- Thưa, vâng!
- Khá khen cách hành động của nhà ngươi đó. Thôi cho về phục mệnh cùng chủ soái ngươi.
Lê Vân, phải chính người đó là Lê Vân, tì tướng của Quốc Đạt, sau khi vâng mệnh vào thành, Lê Vân tự nghĩ: - Nếu ta mà gọi thành rồi xưng danh họ mấy cho vào thì hèn lắm. - Nghĩ vậy, nên chàng vào đến chân thành, nhón gót nhảy qua hào, rồi nhún mình nhảy lên mặt thành, lại nhảy xuống dưới, rồi cứ đương nhiên mà đi, đến khi bị quân trói rồi vào trướng xem cách hành động của Thị Trinh thời rất lấy làm kính phục, lại đến khi nghe nói thời tấm lòng khâm phục lên tới cực điểm. Khi thấy Thị Trinh cho về thời vội vàng trở ra, nhưng nghĩ: - Nếu ta ra bây giờ e quân sĩ lại tưởng mình trốn, chi bằng ta xin một cái giấy cho việc khỏi lôi thôi. - Nghĩ vậy nên quay lại nói:
- Đức bà rộng ơn cho tiểu tướng xin một cái giấy để đi từ đây ra cổng thành kẻo quân sĩ ngờ vực thì không tiện. - Thị Trinh lấy làm phải, liền viết cho một tấm thiếp rồi đưa cho Lê Vân. Vân từ giã đi ra thẳng đường về trại.
Sau khi Lê Vân đã đi khỏi, Thị Trinh liền truyền Phó tiên phong Trần Quý ra giáo trường điểm duyệt lấy 500 quân toàn mặc quần áo đỏ nẹp xanh, tay cầm gươm trường đến đại trướng. Trần Quý vâng lời đi trong chốc lát dẫn 500 quân về đại trướng. Thị Trinh liền lên ngựa, hai bên có hai viên nữ tì tướng hộ vệ, cùng Phan Thái Tâm, Vũ Lăng Chấn, Ngô Thúc Đoan, Lê Huy Thọ dẫn quân ra khỏi cổng thành rồi thẳng đường đến trại Quốc Đạt.
Nói về Quốc Đạt đang ngồi bàn việc cùng mười viên tướng, bỗng thấy quân vào báo:
- Có một toán quân, chủ tướng lại là một người con gái, xin mời chủ soái ra nói chuyện.
Quốc Đạt nghe báo biết là em đến thời vội vàng cùng các tướng lên ngựa đi ra. Thị Trinh ở ngoài bỗng thấy cửa trại mở rồi lộ ra một lá cờ đỏ hồng thêu kim tuyến một chữ “Triệu” rất to, dưới lá cờ Triệu Quốc Đạt mặc nhung phục, tay cầm bảo kiếm ngồi trên con ngựa Ô vân, theo sau mười viên tướng và ngót nghìn quân hàng lối đi ra rất là hùng dũng oai nghiêm. Quốc Đạt, đôi mắt tinh anh sáng quắc nhìn vào Thị Trinh mà rằng:
- Hiền muội đến thăm, ngu huynh chưa kịp nghinh tiếp…
Thị Trinh thấy anh nói như vậy thời vội vàng nhảy xuống ngựa nói:
- Tội em, xin anh thứ lỗi. Anh đừng nói quá như vậy.
Quốc Đạt giơ tay lên nói:
- Thôi em đừng nhắc đến việc đã qua nữa!
Thị Trinh cúi đầu rút kiếm chỉ lên trời dõng dạc nói:
- Vì nước, vì dân, em phải hưng binh theo chí hướng của cha già. Và hay nữa là vận nước ta đến ngày hưng thịnh. Ngày nay việc đã thành lập và đã tiến hành được một ít, em được gặp anh thật thấy rất lấy làm sung sướng. Vậy anh cố theo cho tới mục đích và quên tấm thân mình mà đền ơn cho Tổ quốc. Ở đây, không phải là phòng nói chuyện, không phải là đại trướng, không phải là chỗ bàn kế hoạch. Vậy em xin mời anh cùng quân tướng về huyện thành Nông Cống…
Quốc Đạt nghe nói gật đầu mà rằng:
- Em nói phải! Anh xin y lời.
Rồi ngoảnh lại hô quân:
- Ba quân nghe lệnh ta truyền.
Dứt tiếng hô, đoàn quân nghĩa dũng dạ ran. Quốc Đạt tay cầm cờ lệnh phất một cái, tức thì đoàn quân sĩ hùng dũng răm rắp tiến đi. Hai toán quân cứ từ từ tiến thẳng vào thành.
Vào đến trong thành, Thị Trinh liền truyền quân sĩ mổ trâu giết bò làm tiệc vang lừng vui vẻ…
Giữa trướng, một chiếc sập kê sát vách, trên sập Thị trinh ngồi trầm ngâm, hai con mắt đưa đi đưa lại, lúc cau mày, lúc hớn hở. Hai bên hai hàng tướng im phăng phắc nghe lệnh. Bỗng thấy một tên tì tướng từ ngoài vụt chạy vào quỳ xuống nói to:
- Tâu Đức bà, tướng Ngô đương thách đánh. - Thị Trinh cười mà rằng:
- Chà! Chúng khinh miệt ta thực, lại thằng Huyện lệnh Nông Cống trước chứ gì?
Tên tì tướng nói: - Bẩm không phải!
Thị Trinh cau mày nói: - Thế thì đứa nào?
- Bẩm, tôi thấy quân Ngô chúng nó nói với nhau là Dương Quỳ chứ không phải là thằng Huyện lệnh Nông Cống. Vì người ấy tên là An Tùng kia ạ!
Thị Trinh gật đầu nói:
- Ừ phải! Thôi cho nhà ngươi ra.
Dứt nhời tức thời tên tì tướng lui ra. Rồi Thị Trinh đứng dậy nói:
- Ai ra lấy đầu tướng Ngô cho bản soái?
Dứt nhời, tiên phong Triệu Quốc Thành đứng ra nói:
- Mạt đệ xin ra lấy đầu Ngô tướng.
Thị Trinh vui mừng gật đầu. Tức thời Triệu Quốc Thành ra giá binh khí lấy chiếc tử kim thương rồi lên ngựa dẫn 100 quân ra thành nghênh chiến. Thị Trinh cũng dẫn các tướng lên địch lâu xem thế trận. Triệu Quốc Thành ra đến ngoài thành trông thấy quân Ngô đang hò reo thách đánh thời nổi giận chỉ tay hét lớn:
- Chà! Lũ chó Ngô giỏi thực! Mau về bảo chủ tướng bay ra chịu chết!
Quân Ngô thấy vậy, đều xô chạy về báo với chủ tướng là Dương Quỳ. Dương Quỳ lúc đó đang ngồi ngất ngưởng trong đại trại cùng các tì tướng uống rượu, hết nai161 nọ đến nai kia, say quá thành ra chủ với tướng đều lả ra mà ngủ như chết, quân vào báo gọi mãi mới dậy. Dương Quỳ thấy quân báo thời dở giọng kiêu ngạo lè nhè quát tháo:
- Đồ khốn nạn chúng bay làm mất giấc ngủ của ông, liệu hồn không thì chết giờ. Báo… báo cái gì. Muốn tốt bước ngay.
Bọn quân sĩ sợ hãi run lên như cầy sấy nói:
- Bẩm tướng của quân nghịch gọi chủ tướng ra… ạ!
Dương Quỳ nói:
- Lũ chó chết ấy ta coi mùi gì, chúng mày đi gọi tì tướng Cao Lâm ra đối địch nghe!
Bọn quân lui ra đi gọi Cao Lâm. Cao Lâm lúc bấy giờ cũng say rượu be bét không muốn làm việc gì, nhưng thấy mệnh chủ tướng thì vội vàng lên ngựa kéo quân ra đối địch.
Nói về Quốc Thành đang đợi ở ngoài, bỗng thấy cửa trại quân Ngô mở, một tướng ngồi trên mình ngựa, mặt đỏ gay, hai mắt lờ đờ, cầm thanh đại đao thong thả dẫn quân đi ra, trông dáng điệu rất là khả ố. Quốc Thành nổi nóng quát:
- Ngô tặc! Mi có phải Dương Quỳ không hử?
Cao Lâm đang lúc dở say dở tỉnh nghe tiếng quát thời giở giọng khàn khàn nói:
- Dương… Dương cái gì! Chủ tướng tao không thèm địch với mày. Tao đây! Cao Lâm đây mày có giỏi hãy địch với tao đã.
Quốc Thành cả giận quát:
- Lũ chó Ngô kia! Chúng mày hãy về báo với Dương Quỳ ra đây đã. Còn như cái bộ dạng mày chỉ tên quân của ta cũng đánh nổi.
Cao Lâm đang lúc say mà lại có những nhời kích thích như vậy thời cả giận múa đao quát to:
- Mày hãy xem thần đao của ta đây!
Quốc Thành mỉm cười xuống ngựa đưa thương cho tên quân rồi tay không nhún mình nhảy vọt lên đá hất một cái vào Cao Lâm, khiến cho thanh đao bắn vọt ra một chỗ, rồi tiện tay nắm chặt vào cổ Cao Lâm, dập xuống mà quát lên rằng:
- Phường chó chết mi đã biết tay ta chưa?
Dứt nhời giơ tay quật một cái, chỉ nghe thấy một tiếng “ắc”, Cao Lâm chết tươi!…
Bọn quân Ngô thấy chủ tướng bị giết, đều đổ xô nhau mà chạy…
Quốc Thành liền thúc quân đuổi theo đến cửa trại, Quốc Thành truyền cho bác loa thét vang trời dậy đất, tiếng trống trận ầm ầm như sấm dậy, nhưng trong trại Ngô vẫn không thấy tướng nào ra, bọn quân Ngô thì xôn xao náo động. Quốc Thành tức bực hô quân nhất tề phá trại xông vào. Vào đến đại trại, một loạt tướng Ngô đều mắt nhắm mắt mở tìm đường trốn chạy, Quốc Thành quát lớn:
- Ngô tặc! Mi có chạy đi đằng trời!
Dứt lời, chiếc tử kim thương ở trên tay quay cuồng như chong chóng, ngót mười viên tì tướng của Dương Quỳ chỉ chốc lát đã đều làm quỷ không đầu. Dương Quỳ lúc đó vớ vội được chiếc mã tấu rồi mắt nhắm mắt mở chạy ra để đối địch với Quốc Thành. Nhưng ôi thôi! Vừa ra tới nơi chỉ kịp kêu một tiếng “Ối”, máu ở ngực trào ra, rồi rền rĩ, hồn về địa ngục. Như còn chưa hả giận, Quốc Thành xuống ngựa vung kiếm chém lấy đầu Dương Quỳ rồi hô quân chém giết lũ quân Ngô một hồi, mới thu quân về trại.
Chiều tà, ánh thái dương đã dần dần khuất sau rặng núi mầu xanh thẫm, trên lầu huyện thành Nông Cống nổi lên một hồi trống thu không, vẳng nghe như rền rĩ âm thầm. Bức màn trời đen tối lại từ từ buông xuống hình như giấu kín bao sự bí mật thiêng liêng và khủng khiếp.
Trong đại trướng huyện thành Nông Cống đèn thắp sáng choang. Trên sập, Thị Trinh ngồi nghĩ ngợi. Im lặng, hai hàng tướng ngồi hai bên đều không nói nửa nhời, như ẩn một sự gì huyền bí. Bỗng Thị Trinh ngửng đầu liếc mắt trông hàng tướng rồi nói:
- Hôm nay Triệu Quốc Thành ra trận, kể thế cũng đã làm cho quân Ngô bạt vía kinh hồn rồi, nhưng không có lẽ chỉ thế thôi. Vậy ta muốn lấy huyện Đô Bàng rồi mới lấy lấy sang huyện khác. Nhưng huyện Đô Bàng lại gần đây, ta chắc ở đó họ phòng bị rồi, vậy ai dám ra lĩnh cái trách nhiệm nặng nề đó.
Bà nói dứt nhời bỗng một tướng bước ra nói:
- Tiểu tướng Phan Thái Tâm xin đảm nhiệm việc lấy Đô Bàng.
Thị Trinh tỏ vẻ mặt nghêm nghị mà rằng:
- Lấy Đô Bàng cũng không phải là khó, nhưng có một điều ta cần dặn: phải tùy theo công việc mà hành động, cốt nhất là cẩn thận, lúc nào cũng phải nghĩ đến dân nước đừng uống rượu là một, đừng chơi phiếm162 là hai, đừng nhãng quên kỷ luật là ba. Ấy ba điều ấy tướng quân nên nhớ. Còn việc đảm nhiệm ta ưng thuận, đến sáng mai cho phép tướng quân điểm lấy 300 quân nghĩa dũng mà đi lấy Đô Bàng.
Hôm sau, mới tờ mờ sáng, trong huyện thành Nông Cống một toán quân đi đầu một viên tướng tức là Phan Thái Tâm từ từ yên lặng đều răm rắp tiến thẳng ra phía cổng thành…
Trời gần sáng, xa nghe những tiếng cú kêu vượn hót ở trong những khu rừng đen tối âm u và trong những làng xóm gần đó, tiếng gà gáy ran lên như thức tỉnh những người làm việc. Đoàn nghĩa dũng quân vẫn đi, yên lặng không một tiếng xì xào, những vó ngựa, những chân người đập xuống đất rầm rập.
Đằng phía đông lộ ra một vừng đỏ ối, rồi con quạ lửa từ phía chân trời xa sắp từ từ hiện lên chiếu những ánh vàng le lói xuống nhân gian.
Đoàn quân lúc vào rừng lúc ra suối, khúc khuỷu quanh co, có lúc cùng nhau leo trèo trên những trái núi cao ngất tới từng mây, nhưng vẫn hăng hái không dừng. Còn cách Đô Bàng 15 dặm, Thái Tâm liền dừng quân hạ trại nghỉ. Sáng hôm sau, dứt một hồi trống cái, một toán quân từ trong tiến ra. Phan Thái Tâm cưỡi ngựa mầu gio, tay cầm chiếc giáo dài , đi đầu, dưới một lá cờ đại đỏ hồng thêu kim tuyến một chữ “Phan” rất to. Toán quân theo lệnh Thái Tâm răm rắp yên lặng tiến đi đến gần cổng thành, dàn bày trận thế. Rồi chàng thúc ngựa ra trước trận, đứng dưới cờ cầm kiếm chỉ tay lên mặt thành mà thét lớn:
- Bớ quân Ngô! Mau mau ra báo cùng viên Huyện lệnh ra đây chịu chết. - Dứt tiếng thét, quân Ngô hò reo thách đánh.
Nói về viên Huyện lệnh Đô Bàng là người rất nhát về việc binh mã, mà về cái môn “khoét” thời khéo lắm. Hôm đó đang ngồi trong trướng cũng với mấy viên mạc tân để tìm cách cự địch quân loạn, bỗng thấy quân thám mã về báo rằng:
- Toán quân của Lã Thái thú sai về đánh Nông Cống đã bị thất bại và chết không còn sống sót một tên quân nào, hiện chúa đảng quân nghịch đã sai một viên tướng về đánh huyện Đô Bàng, hiện tướng của loạn quân đã tới và đang reo hò thách đánh.
Viên Huyện lệnh nghe báo giật mình nói với mấy viên mạc tân rằng:
- Gớm! Quân nghịch giỏi thực! Nông Cống đã bị mất, lại tổn hại mất bao nhiêu quân sĩ, chẳng hay các tiên sinh có biết chúa đảng là người nào không?
Viên mạc tân Trương Cẩn nói:
- Chúa đảng của nó là một người con gái, tên gọi là Triệu Thị Trinh, con lão đồ ở huyện Nông Cống mà ta vẫn thường dò xét cách hành động của nó.
- À, gớm nhỉ! Giỏi nhỉ! Không ngờ ở cái đất mọi rợ này lại có những người như thế. Bây giờ làm thế nào? Các tiên sinh?
Trương Cần ung dung nói:
- Bây giờ đại nhân nên sai một tướng ra nghênh địch, nếu xem tình hình thế quân địch mà hăng thì ta cố thủ, chờ khi nào Lã Thái thú cho quân cứu viện sẽ hay, nếu quân địch kém thời ta đem toàn quân ra chỉ đánh cho một trận khiến quân kia phải lui. Ấy đấy là kế của tôi đó, đại nhân nghĩ thế nào? Các tiên sinh nghĩ thế nào?
Viên Huyện lệnh gật đầu mà rằng:
- Phải đấy! Trương tiên sinh nói phải đấy.
Dứt nhời truyền tì tướng và Phàn Hoạt lĩnh 300 quân ra trận. Phàn Hoạt vâng mệnh lên ngựa cầm đao phát pháo ra thành. Ra đến ngoài, Hoạt trông thấy một toán quân xếp hàng đứng im phăng phắc, gươm giáo sáng choang, mà viên chủ tướng thì là người Giao Chỉ, ngồi trên con ngựa mầu gio, tay cầm giáo dài, trông có vẻ oai nghiêm hùng dũng thì đã thấy hơi sợ. Nhưng cái lòng tự kiêu tự đắc đã quen làm cho Hoạt không nghĩ gì nữa, liền cầm đao quát to lên rằng:
- Lũ mọi rợ kia! Cớ sao dám chống cự lại thiên binh? Muốn sống xuống ngựa đầu hàng, ta sẽ tha chết cho, bằng không, thanh thần đao này sẽ đưa hồn nhà người về…
Chưa kịp nói xong, một mũi tên cắm phập vào ngang vai, Hoạt lêu rú lên, chưa kịp rút tên thời bỗng một mũi tên nữa vụt lại cắm vào bên vai nữa, bọn quân Ngô đều kinh ngạc, mà cả bên kia Thái Tâm cũng kinh ngạc. Bỗng từ trên cây thông gần đấy, một người mặc quần áo đen băng mình nhảy xuống, tay cầm bảo kiếm múa tít lên như chong chóng, rồi lại thò tay vào bọc rút một mũi phi tiêu, nhằm thẳng Phàn Hoạt mà lao, tức thời Phàn Hoạt rú lên một tiếng nữa, ngã vật xuống ngựa chết ngay. Phàn Hoạt chết rồi, người ấy thét luôn:
- Ngô cẩu xem kiếm của ta. - Rồi một lưỡi kiếm vùn vụt bay thẳng vào đám quân Ngô, chỉ một lát bọn quân Ngô chết ngổn ngang, còn một ít chạy về đến cổng thành vì lúng túng thành ra lăn ùm xuống hào mà chết.
Người mặc áo đen chém giết một hồi rồi quày lại. Phan Thái Tâm buột miệng kêu:
- Kìa Lê Huy Thọ tướng quân sao lại ở đây? Kỳ lạ quá, anh giỏi quá, tôi không ngờ anh lại có cái bản lĩnh cao siêu như vậy, nhất là phi tiêu của anh giỏi quá!
Người mặc áo đen khành khạch cười mà rằng:
- Phải, Lê mỗ đây, tướng quân hãy dẫn quân về trại rồi ta sẽ nói chuyện. - Dứt nhời, Huy Thọ vụt một cái lên cây thông, cất tiếng giòn giã rồi dùng thuật phi hành vùn vụt về trại…
Thái Tâm thấy cách hành động của Huy Thọ như vậy thời rất lấy làm cảm phục. Dẫn quân về trại thì đã thấy Huy Thọ ngồi ngất ngưởng ở giữa đại trướng. Thái Tâm kinh ngạc nói:
- Gớm tướng quân làm gì mà thần xuất quỷ một như vậy, sao chẳng đợi ngu đệ với?
Huy Thọ cười mà rằng:
- Mỗ không có ngựa thì chờ thế nào được?
Thái Tâm phì cười mà rằng:
- Phải! Thế tại sao anh lại lòi ra đây thế?
Huy Thọ cười mà rằng:
- Đức bà sai tôi đi giúp anh đó, vì sợ ở đấy canh phòng cẩn mật e không phá nổi.
Thái Tâm nói:
- Gớm! Đức bà cẩn thận quá! Thế sao anh không bảo tôi mà lại làm tôi không hiểu thế nào?
Lê Huy thọ vừa cười vừa nói:
- Này nhé! Tôi vâng mệnh Đức bà đi từ mờ sáng hôm nay, vì có nghề phi thân nên mới nhanh thế chứ. Đến đây tôi vào trại tìm quanh quẩn mà không thấy anh đâu. Nên chạy ra thấy anh đang hành quân thì vội vụt lên cây thông mà ngồi, đến khi thấy cái thằng mạt kiếp ấy ra nói những giọng khó nghe quá không muốn để cho nó ở trước mặt một khắc nào nữa nên bắn vài mũi tên cho nó chết đi rồi vụt xuống làm cho cũng nó phải một bữa kinh hồn táng đởm.
Thái Tâm nghe Huy Thọ kể một hồi, lấy làm cảm phục, bỗng Huy thọ vỗ vai nói:
- Nào! Anh Tâm cho mỗ chén chứ? Kiến bò bụng rồi! Từ sáng đến giờ nhược xác lại không có một tí gì vào bụng thì chịu thế nào được.
Thái Tâm nghe nói vui vẻ sai quân đi làm tiệc.
Lát sau tiệc đã sẵn sàng, hai người đều ngồi lại ăn uống đàm đạo rất là vui vẻ.
Ngoài trời con quạ lửa rọi những tia vàng le lói xuống chỗ chiến trường hình như để ngắm nghía những việc của người đời, hành động. Và khi ấy trong huyện Đô Bàng, quanh chiếc bàn chữ nhật, mấy viên mạc khách cùng viên Huyện lệnh ngồi bàn việc, những bộ mặt ngây ngô kinh sợ ngửng lên cúi xuống thở dài, những con mắt cứ nhìn nhau rồi như thất vọng… Bỗng viên Huyện lệnh nói:
- Hay là bây giờ liều một trận.?
Mạc khách Hàn Tân nói:
- Thôi gọi là cố thủ! Cố thủ! Đừng liều mà chết cả nút. Đấy xem như Phàn Hoạt chết như chơi ấy…
Viên Huyện lệnh ưng nhời, rồi yên lặng các mạc khách đều âm thầm đem theo cái bộ mặt thất vọng lui ra giải tán…
… Rồi từ đấy, trên mặt thành Đô Bàng những quân Ngô vâng mệnh lệnh đứng chống giữ không để cho quân nghịch vào thành. Thái Tâm mấy lần đánh thành nhưng không được, tức bực, sau chàng nghĩ được một kế, liền vào trướng bàn với Huy Thọ. Huy Thọ khen phải rồi chàng từ giã trở về trại với cái nụ cười sung sướng của kẻ anh hùng. Đêm hôm ấy, một đêm trăng sao mờ mịt, trên bầu trời đen sẫm vài chấm sao mờ lấp lánh, một bóng đen rạp trên con ngựa bạch, phi như bay về phía huyện thành. Đến chân thành, bóng đen nhảy xuống ngựa, buộc xong đâu đấy rồi rún một cái như con én lên mặt thành, lại vùn vụt trên những nóc nhà, tiến đến dinh viên Huyện lệnh nằm rạp xuống mái ngói nghe ngóng. Bóng đen bí mật tay rút mấy viên ngói trông xuống, một lát rồi cầm một vật gì sáng quắc như con dao buộc kèm với một tờ giấy rồi lao xuống… “Phập”, con dao cắm thẳng vào chiếc bàn ở giữa dinh. Bóng đen cất tiếng cười giòn giã rồi phi thân vùn vụt đi về phía nhà viên phòng thành nhảy xuống cậy cửa vào… Chỉ một lát trên tay bóng đen đã cầm một cái đầu lâu đẫm máu, rồi vùn vụt chạy lại dinh viên Huyện lệnh ném vào cái bàn lúc nãy… Hành động xong công việc bí mật, bóng đen lại vùn vụt phi thân ra ngoài thành nhẩy lên ngựa, con ngựa rít lên một tiếng ghê hồn, rồi cất bốn vó phi như bay vào trong khoảng tối âm thầm… Bóng đen ấy là ai? Sao lại hành động một cách bí mật như vậy, mà không ai biết? Ký giả xin trả lời một câu vắn tắt: “Người ấy là Phan Thái Tâm” vậy. Phan Thái Tâm sau khi nghĩ được mưu kế liền định viết một bức thư đe dọa viên Huyện lệnh cho y sợ để dễ hành quân. Thái Tâm sau khi đã làm xong công việc rồi liền về trại chờ tin tức. Mờ sáng hôm sau, trong dinh viên huyện lệnh Đô Bàng ai cũng nhớn nhác sợ hãi. Viên Huyện lệnh đêm hôm ấy đang ngủ bỗng nghe thấy đánh phập một cái, một luồng bạch quang vụt xuống mặt bàn. Viên Huyện lệnh giật mình không hiểu là cái gì, một lát sau, bỗng lại thấy một tiếng bốp, một vật gì lù lù như quả bưởi rất to từ trên cao rơi xuống. Viên Huyện lệnh thất kinh kêu váng cả lên, bọn gia nhân thấy vậy đều nhớn nhác đèn đuốc đem vào thảy đều kinh ngạc, lắc đầu lè lưỡi. Viên Huyện lệnh trông thấy kêu rú lên một tiếng miệng lắp bắp hỏi:
- Đầu… đầu ai mà ở đây?… Dao nào kia?
- Bẩm, bẩm đầu quan phòng thành, lại có một tờ giấy nữa ạ!
Thấy nói có tờ giấy, viên huyện lệnh vội nói:
- Mau lấy ta xem! Giấy gì? - Tên gia nhân sợ hãi vội lấy cái que cời tờ giấy ra đưa cho viên Huyện lệnh, viên Huyện lệnh tiếp lấy xem thấy mấy hàng chữ như sau này:
Cùng viên Huyện lệnh Đô Bàng. Tối nay ta hãy để đầu nhà ngươi lại! Truyền cho mi biết nếu không đầu hàng hoặc trả thành này cho ta mà đi chỗ khác và cưỡng lời, đầu mi ta chặt ngay tức khắc.
Giao Châu hiệp khách thư.
Xem xong bức thư, viên Huyện lệnh tái mặt đi, sai gia nhân đi gọi các mạc khách, các viên mạc khách nghe tin đều nhớn nhác sợ hãi, vội vàng đến dinh viên Huyện lệnh.
Lúc đó ở dinh viên Huyện lệnh các mạc khách đều tề tựu bàn tán xì xào, bỗng thấy có một hồi trống ở ngoài công đường, viên huyện lệnh vội cùng các viên mạc khách đi ra đến công đường đã thấy mấy tên gia nhân nhà viên phòng thành báo cái án mạng hôm qua không biết ai giết mà lại đem đầu đi đâu, viên Huyện lệnh nói:
- Người giết viên phòng thành tức là một đảng viên của quân nghịch, hiện đầu lâu của viên phòng thành nó bỏ ở dinh ta, vào mà mang về. - Mấy tên gia nhân vội vào mang về mai táng.
Nói về viên Huyện lệnh thấy quân nghịch đe dọa thì cả sợ nói với mấy tên mạc tân rằng:
- Quân loạn hành động gớm quá, không như những đảng ở Cư Phong, lại như hôm qua nó làm như vậy thì thật là đáng sợ. Vậy các tướng phải canh phòng trong dinh ngoài dinh cho cẩn mật hễ thấy nó đến là đem cũng bắn xuống.
Đêm ấy quanh dinh viên Huyện lệnh bọn quân Ngô và mấy viên du kích đi lại răm rắp, đèn thắp sáng choang để dự phòng quân nghịch. Nhưng đêm đã khuya, gió thổi ào ào, quân Ngô mệt lử ra cứ thế ba bốn đêm, quân Ngô nhọc sức mà không thấy gì, viên Huyện lệnh nói với mấy viên mạc khách:
- Chắc quân địch thấy ta canh phòng nên sợ không dám đến, vậy thời chẳng cần canh phòng. - Bọn quân Ngô được lệnh đều về trại ngủ, huyện thành đều im phăng phắc không ồn ào như trước, canh phòng cũng trễ nải, từ quân đánh trống canh cũng rời rạc, rồi dần dần quên cả phận sự của mình mà lăn ra ngủ li bì như chết.
Sáng hôm sau, mặt trời đã lên cao quá ngọn tre mà trong thành huyện Đô Bàng vẫn im phăng phắc, từ quân đến tướng vẫn ngủ, mãi đến nửa buổi mới dậy, vội vàng lên mặt thành để xem quân địch. Lên đến mặt thành cả bọn đều trố mắt nhìn ra ngoài, nhưng không thấy gì nữa, quân Nam đã kéo đi đằng nào rồi, đều ngơ ngác rồi vội vàng quay về báo với Lã Huy. Lã Huy nghe báo đang phân vân không hiểu ra sao, bỗng thấy một lũ mạc khách lục tục kéo vào. Huy vội hỏi:
- Quân địch đang thắng mà kéo đi, là có ý gì?
Mạc khách Tiêu Hòa nói:
- Bẩm đại nhân, tôi nghĩ quân nó đánh mãi không được thì phải bỏ đấy ạ!
Mạc khách Hoàng Cân bước ra rồi nói:
- Không, không phải khi nào nó chịu thôi, cứ xem cái thuật phi hành của nó như thế, tôi chắc là có quân của Lã Thái thú về đánh nơi căn bản của nó, nên nó mới về để tiếp ứng, chứ không còn có ý gì khác.
Lã Huy gật đầu cười mà rằng:
- Phải, Hoàng tiên sinh nói có lẽ đấy, còn các tiên sinh nghĩ sao?
Trương Cân nói:
- Hoàng tiên sinh nói rất phải, chúng tôi rất phục, vậy đại nhân nên hạ lệnh cho quân sĩ ra ngoài thành cày bừa ruộng nương và kiếm củi.
Lã Huy lấy làm phải, liền hạ lệnh ngay lúc ấy.
Quân sĩ và nhân dân được lệnh đều kéo nhau lũ lượt ra ngoài thành đẵn củi và cày bừa tấp nập, mãi đến chiều tối sập lại mới kéo nhau về thành yên nghỉ, việc canh phòng từ đó cũng thành ra chểnh mảng, các quân sĩ đều an lòng ngủ yên không lo ngại gì nữa…
Trời tối như bưng, trên trời vài ngôi sao lấp lánh, tiếng dế kêu, tiếng thông reo, đồng thời như phá tan cảnh đêm tối âm u…
Khi ấy, bỗng trên mặt thành một bóng đen vùn vụt đi về phía cổng thành. Đang đi bỗng thấy một bóng đen khác vụt lại sẽ hỏi:
- Ai? Huy Thọ tướng quân phải không?
- Phải! Các ngươi đã thi hành xong chưa?
- Dạ, chúng tôi đã dự định cả rồi, chỉ đợi mệnh lệnh của tướng quân nữa thôi…
Giơ tay lên, rồi Huy Thọ nói:
- Được rồi, cho nhà ngươi lui!
Dứt tiếng, bóng đen kia vụt một cái biến vào cõi tối âm thầm…
Tiếp luôn một hồi còi vang tai, rồi Huy Thọ vụt nhẩy xuống cổng thành rút đoản đao chém đứt khóa cổng thành rồi mở toang ra, tức thời một toán người rầm rộ đi vào, đồng thời đuốc bật lên và reo lên ầm ầm. Đi đầu viên tướng tức là Phan Thái Tâm cầm dao xông vào thành. Chính lúc đó, tất cả bốn mặt thành đã thấy lửa cháy đỏ rực cả. Huy Thọ cả mừng vội vàng phi thân lên lầu canh rồi vùn vụt đến dinh viên Huyện lệnh nhẩy xuống.
Vừa xuống đến nơi, đã thấy viên Huyện lệnh cuống cuồng không mặc áo, không đi giầy, ôm một cái tráp vội vàng đi ra, theo sau vợ con đầy tớ không biết bao nhiêu mà kể. Huy Thọ khoa đao thét to lên rằng:
- Lũ chó Ngô kia đứng lại không ta chém!
Lã Huy cả sợ vội chạy, nhưng chưa được một bước, Huy Thọ đã chạy lại ôm ngang người quật xuống, lấy thừng trói lại rồi chỉ bọn gia nhân mà thét:
- Muốn tốt thời đứng lại! Không sẽ chết.
Bọn gia nhân của Lã Huy đều run lên như cày sấy, lạy lục xin tha và toan chạy, Huy Thọ nói:
- Chúng bay phải nghe ta. Nếu cưỡng lời, thanh đoản kiếm của ta nó không nể đâu…
Bọn kia nghe nói đều phải dừng lại, Huy Thọ liền lôi Lã Huy ra ngoài đưa cho một tên quân coi giữ.
Lúc đó quân Ngô đã xôn xao chạy tán loạn, nhưng muốn chạy ra ngoài thành thời đã có quân Nam canh rồi, nên đành giơ tay chịu trói cả. Khi đó trời vừa tảng sáng, Phan Thái Tâm liền truyền nổi trống họp quân, chỉ một khắc quân tướng đã đông đủ, Thái Tâm liền truyền giải Lã Huy lên công sảnh…
|
|
|
 |
|
|
 |
14.09.2018, 14:07 |
|
V.I.P
|
|
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36 Tuổi: 35 Bài viết: 35935 Được thanks: 6059 lần Điểm: 9.62
|
|
 Re: [Xuất bản - Lịch sử] Vua Bà Triệu Ẩu - Nguyễn Tử Siêu - Điểm: 10
HỒI THỨ XI
Đánh Cư Phong Quốc Đạt ra oai, Giết Đặng San Vua Bà dụng kế
Lã Huy bị điệu lên công sảnh, nét mặt lo lắng sợ hãi bồi hồi, tự nghĩ: - Ta từ ngày làm quan đến giờ chỉ những tra tấn dân Giao Chỉ mà ngồi trên công sảnh, ta có ngờ đâu lại phải nước này. - Đang nghĩ ngợi bỗng thấy Thái Tâm ngồi trên sập lên tiếng quát:
- Lã Huy! Hôm nay mi đã hiểu chưa, mi phải biết dân Giao Chỉ ta không phải là dân hèn đâu. Mi nghĩ xem chủ mi sai sang bên ta để mở mang để cai trị, để dạy những điều hay lẽ phải, hay là để cho mi đè hiếp dân ta, mà phải chết, ta không muốn để cho mi chết mà không biết được đầu đuôi tại thế nào mà chết, vậy ta phải nói cho mi biết nghe chưa. Đao phủ quân đâu chém đầu Lã Huy nộp lệnh mau.
Dứt tiếng, bốn tên đao phủ vác mã tấu ra trói Lã Huy vào cọc rồi chỉ còn đợi lệnh là chém, Lã Huy bấy giờ biết không thể nào nói được nữa nên đành nhắm mắt chịu chết. Được lệnh, tên đao phủ cầm mã tấu giơ thẳng tay rồi phập một cái, Lã Huy đã bị chia ra làm đôi. Chém xong Lã Huy rồi, Thái Tâm liền truyền đem gia quyến và mấy tên mạc khách ra chém bêu đầu ngoài thành, còn những quân Ngô thời lôi quần áo ra đánh 50 roi cho về nước. Xong lại truyền mở tiệc ăn mừng rất vui vẻ và đem tin đại thắng về báo với Đức bà Nhụy Kiều tướng quân ở Nông Cống…
Nói về Nhụy Kiều tướng quân từ khi sai Phan Thái Tâm và Lê Huy Thọ đi lấy Đô Bàng thời ngày ngày luyện binh, càng thêm chỉnh túc.
Hôm đó đang cùng với Triệu Quốc Đạt và Quốc Thành bàn việc quân cơ, bỗng có quân báo:
- Đô Bàng, Phan tướng quân đã lấy được, cho về báo tiếp…
Đức bà Thị Trinh nghe nói, xiết bao vui mừng, ngảnh lại nói với Quốc Đạt:
- Đấy hiền huynh xem! Quân em đi đến đâu, quân Ngô phải khiếp đảm kinh hồn đến đấy. Thật là hồng phúc cho nước nhà biết mấy!
Quốc Đạt nghe nói rất lấy làm khâm phục, cất tiếng:
- Hiền muội nói rất phải, ngu huynh rất phục, vậy nay quân của ngu huynh xin hiền muội cho được hợp vào quân của hiền muội, còn ngu huynh thời xung vào hàng tướng của hiền muội tùy để chờ lập công.
Nhụy Kiều tướng quân vâng lời, rồi nói:
- Giờ xin hiền huynh thống suất 200 quân ra đóng Đô Bàng với Phan Thái Tâm, khi nào có việc em sẽ xin báo cáo.
Xong việc Quốc Đạt lại bảo Quốc Thành:
- Hiền đệ khá về An Phổ cai quản, khi nào có việc cần ta sẽ báo.
Quốc Đạt và Quốc Thành đều y lời kéo quân đi…
***
- Bây giờ nên tôi tự thống đại binh đi hay sai tướng khác, quân sư cho biết?
- Tướng quân tự thống đại binh đi thì hơn, còn tôi xin ở lại giữ trại.
- Vâng, xin tùy ý quân sư định liệu.
Chiếc sập trong một cái hang rất to, hai người ngồi bàn việc, hai bên quân sĩ đi dép gai, tay cầm trường kiếm đứng hầu, im lặng, không một tiếng gì khác, chỉ trừ có tiếng của hai người xì xào to nhỏ, ngọn đèn dầu hột chập chờn như không chịu nổi sơn khí bốc lên.
Trời tối trong hang lại càng tối om, khêu thêm ngọn đèn, một người đứng dậy hỏi: - Quân bay!
Tức thời một tiếng “Dạ” vang cả hang, tiếp luôn một tên vụt ra vòng tay đáp: - Chủ tướng truyền!
Gật đầu người kia nói:
- Mi khá đi gọi mười vị hổ oai lại đây.
Vâng một tiếng, tên quân chạy ra ngoài biến hình vào trong khoảng tối âm thầm. Lại ngồi xuống vớ chiếc điếu cày hút một hồi sòng sọc như tiếng chim liếu điếu, người kia lại cầm ấm tay rót lấy uống, rồi nằm xuống vắt tay lên trán trầm ngâm. Bên cạnh người nọ cũng ngả mình xuống sập và lạnh lùng, không nói nửa nhời.
Hai người ấy là ai mà bí mật vậy? Ký giả xin nói một lời vắn tắt là: Bình Ngô Thống tướng Lý Mão và quân sư Nguyễn Điềm.
Nguyên lai Lý Mão từ khi bại trận trở về, nghe lời người con gái cứu mình mấy hôm trước nói với quân sư Nguyễn Điềm. Sau khi hai người đã hợp ý, Lý Mão liền truyền sai đi gọi mười viên hổ oai để truyền lệnh.
Một lát mười viên hổ oai tướng quân lục tục đi vào. Lý Mão nhổm dậy nói:
- Phó tướng Lên Huân ở lại giữ trại với quân sư còn mười vị hổ oai sắp sửa ngày mai đi đánh Cư Phong, nghe!
Một loạt đều dạ ran rồi lại lui ra, trong hang lại im lặng như tờ.
Sáng hôm sau, trời vừa tản sáng, Lý Mão đã thống lĩnh mười viên tướng tá và ngót 500 quân kéo thẳng về phía huyện Cư Phong, quân đi đã gần trưa mà mới được 30 dậm thuộc về địa phận huyện Kệ Lãnh, bỗng nghe thấy mấy tiếng còi, rồi loa vang ở trong rừng, tiếp luôn một hồi trống rầm trời dậy đất. Lý Mão giật mình vội hô quân dừng lại, gươm đao tuốt trần, định tiến thẳng vào rừng.
Bỗng “vèo vèo”, tên trong rừng vùn vụt bắn ra như mưa. Lý Mão vội truyền lấy mộc163 đỡ tên, rồi cứ tiến quân, nhưng chưa được vài bước bỗng một mũi tên vụt cắm vào mắt con ngựa của Lý Mão, con ngựa bị đau lồng lên, rồi quật Lý Mão xuống đất, tiếp luôn trong rừng xông ra một tên tướng Ngô tay cầm đao, tay cầm cung vùn vụt xông lại chực chém Lý Mão. Nhưng vừa nhảy xuống, bỗng thốt kêu một tiếng “Ối”, Lý Mão đã chồm dậy vung kiếm đâm thẳng vào cổ tên tướng Ngô, tên tướng Ngô không kịp đỡ ngã lăn ra mà chết. Tiện thể Lý Mão nhảy vụt lên con ngựa của tên tướng Ngô rồi ngoảnh lại hô quân:
- Tiến! Không sợ! Mau!
Dứt tiếng cả đoàn quân cùng mười viên tướng đều răm rắp tiến theo. Đến giữa rừng bỗng thấy một tên tướng Ngô khác vụt ra giơ kiếm quát:
- Đứng lại!
Trừng mắt nhìn viên tướng Ngô, Lý Mão quát:
- Chà! Quân khốn nạn có tài đảm gì mà ngăn cản được ta hử?
Tên tướng Ngô nhăn bộ răng trắng hếu nói:
- Tài đảm gì! Nếu mi qua đây sẽ chết hết.
Lý Mão nói:
- Ta hãy hỏi lũ khốn nạn chúng bay là quân của thằng nào sai phái?
Tên tướng Ngô bực tức quát:
- Đặng San chủ tướng Đồi Roi sai ta! Nó đã ương, quân bay bắn tên thuốc độc ra mau.
Dứt tiếng hô, trong rừng vèo vèo tên bay ra như mưa, Lý Mão vội hô quân:
- Lui, lui mau!
Dứt tiếng kéo quân trở lại, thời lại không thấy bắn nữa, lại vào nhưng lại thấy bắn. Bốn, năm lần vào nhưng vô hiệu, Lý Mão liền truyền đóng trại cạnh rừng. Sáng hôm sau chực tiến vào rừng để cho chóng đến Cư Phong, bỗng thấy trong rừng một toán quân xông ra, Lý Mão vội truyền quân sĩ nhất tề xong vào hỗn chiến. Đánh nhau gần đến nửa buổi mà hai bên vẫn găng nhau không bên nào thua được, bỗng thấy quân Lý Mão ồn ào náo động, Lý Mão cả sợ, vội quay xem thì Đặng San đã đem quân đánh tập hậu và bổ lại vây tứ phía.
Lý Mão cùng các tướng ở trong vòng vây tung hoành một hồi lâu mà vòng vây vẫn kiên cố. Đang lúc nguy cấp bỗng thấy quân Ngô dãn ra và kêu inh ỏi, một người cầm chiếc tử kim thương múa tít xông vào, theo sau một toán quân sinh lực rất là hăng hái. Lý Mão ngoảnh lại trông người ấy, thời hóa ra Phó tướng Lê Huân. Lý Mão không kịp hỏi duyên do, liền cùng Lê Huân đánh lấy một đường huyết lộ phá vòng vây xông ra. Đặng San thấy Lý Mão đã chạy thời hạ lệnh thu quân, thôi không đuổi nữa.
Lý Mão ra thoát vòng vây, chạy một quãng ước độ tám, chín dặm mới đứng lại và kịp hỏi chuyện, Lê Huân nói:
- Sau khi chủ tướng đi khỏi, bỗng tiếp được quân tế tác về báo: “Đặng San vẫn còn phục một toán quân ở khu rừng Kệ Lãng. Quân sư sợ chủ tướng bị thất cơ nên sai tôi đem quân tiếp ứng.”
Lý Mão nói:
- Thật là may cho tôi. Nếu không có toán quân của Phó tướng hôm nay thời khó lòng thoát được.
Sau đó, Lý Mão liền truyền lệnh hãy tạm đóng quân lại ở đó, để dần dà tìm đường khác tiến lên Cư Phong. Ngày hôm sau, Lý Mão đang cùng Lê Huân ngồi trong quân trướng bàn luận, bỗng có quân tế tác về báo: “Hiện Đặng San đã chia quân ngăn ra làm hai, một toán giữ ở khu rừng Kệ Lãnh, chặn lối ta lên Cư Phong; một toán đóng rải rắc ở trại Hòe, trại Mã, để chặn lối ta về. Viên Huyện lệnh Cư Phong lại mới phái thêm 300 quân đến giúp sức, nên cái khí thế của Đặng San lại càng hăng lắm…”
Lý Mão nghe báo, cả kinh, nói với Lê Huân rằng:
- Nếu vậy thời giờ ta tiến thoái đều bị ngăn trở cả, chẳng lẽ đành chịu bó tay chết ở đây hay sao?
Lê Huân nói:
- Cứ cung cách này thời dù cho về báo với quân sư, quân sư cũng không thể tự tiện bỏ nơi căn bản mà đến đây phó cứu được. Tôi nghe ở cùng Nông Cống mới có người một con gái khởi lên, khí thế rất mạnh, chỉ trong vòng có hơn một tháng trời mà đã lấy được hai huyện Nông Cống và Đô Bàng. Người con gái ấy, bây giờ thống suất có tới bốn, năm nghìn binh mã, trong quân tôn là Nhụy Kiều tướng quân. Dưới thủ hạ cũng có rất nhiều tướng giỏi, đi đến đâu quân Ngô đều khiếp sợ. Chi bằng bây giờ ta viết thư sang cầu cứu với đám ấy, nếu Nhụy Kiều tướng quân bằng lòng phó cứu, thời ta mới có thể thoát được cơn nguy hiểm này.
Lý Mão nghe Lê Huân nói, ưng lời ngay, liền vội vàng viết thư sang Nông Cống cầu cứu.
Nói về Nhụy Kiều tướng quân hôm đó, vừa toan bàn định việc đem quân đi lấy huyện Cư Phong, bỗng tiếp được bức thư cầu cứu của Lý Mão, Nhụy Kiều mỉm cười nói: - Lý Mão bây giờ mới biết đến ta à?
Nói rồi, truyền cho tên mang thư ấy hãy cứ về trước bão với Lý Mão hãy cứ yên lòng cố thủ, chỉ trong vòng năm, sáu ngày nữa sẽ có quân đến cứu…
Tên ấy đi rồi, Nhụy Kiều liền truyền người đến Đô Bàng mời Quốc Đạt đến bàn việc quân cơ. Mờ sáng ngày hôm sau, Quốc Đạt đã đem quân bản bộ từ Đô Bàng đến nơi. Nhụy Kiều thân ra viên môn nghênh tiếp, mời vào trong trướng. Sau khi hai bên đã an tọa, Nhụy Kiều liền đem chuyện Lý Mão cầu cứu nói với Quốc Đạt và ngỏ ý muốn nhờ Quốc Đạt đem quân đi cứu. Quốc Đạt không hề trù trừ, nhận lời ngay. Nhụy Kiều lại nói:
- Tuy rằng anh đem quân đi cứu Lý Mão, nhưng em thiết tưởng bất tất phải đến tận Kệ Lãnh, chẳng những thêm xa mà cũng vô ích.
Quốc Đạt ra vẻ ngạc nhiên nói:
- Hiện giờ Lý Mão đang bị chẹn ở Kệ Lãnh, nếu không đến Kệ Lãnh thời cứu sao được Lý Mão?
Nhụy Kiều cười mà rằng:
- Anh dụng binh đã già đời mà còn không hiểu cái lối “bắt người phải theo ta, tự ta sẽ cứu người” hay sao? Đã đành rằng bây giờ Lý Mão bị chẹn ở Kệ Lãnh, nhưng nếu giờ ta đem quân tiến thẳng đến Kệ Lãnh, lỡ ở Cư Phong nó đem quân đến đánh úp đằng sau, rồi tên Đặng San nó đánh đón đằng trước, thế có phải là tự ta lại tự giam hãm vào một cái hoàn cảnh như Lý Mão không? Chi bằng bây giờ anh đem quân đến đánh thẳng vào thành Cư Phong, ở Cư Phong hiện giờ có bao nhiêu quân cường tráng đã cho đi giúp Đặng San cả rồi, nếu may ra thời lấy ngay được Cư Phong, nhược bằng ở Cư Phong nó cố thủ, thời tất nó phải đi báo với Đặng San rút quân về. Lúc đó, ta bất tất phải cứu Lý Mão, mà Lý Mão cũng tự nhiên được thoát.
Nhụy Kiều vừa nói đến đấy, Quốc Đạt cười khành khạch mà rằng:
- Phải lắm! Phải lắm! Kế ấy rất hiệu, anh xin tuân hành.
Ngày hôm sau Quốc Đạt thống suất 500 binh mã thẳng đường sang Cư Phong tiến phạt.
Nói về huyện Cư Phong khi đó đã đổi viên Huyện lệnh khác. Viên này tên là Hoàng Quỳnh, vốn là một tay huyện lại xuất thân. Bình nhật chỉ quen việc bòn mót của dân gian, đối với việc quân thật không biết một chút gì. Hôm ấy đương ngồi trước công sảnh để xử kiện, bỗng có thám mã về báo: ở phía Đông Bắc có một toán binh mã kéo đến rất đông, chỉ còn cách huyện thành độ bảy, tám dặm thôi. Hoàng Quỳnh nghe báo tái mét mặt đi một hồi lâu, mới bảo đánh trống hội họp các tướng tá lại để bàn.
Một lát sau các tướng tá đều đã họp cả ở công sảnh. Hoàng Quỳnh đem việc thám mã về báo nói cho các tướng biết và hỏi các tướng nên đối phó bằng cách nào.
Một viên tì tướng tên là Đỗ Tiêu đứng ra nói rằng:
- Mạt tướng tuy bất tài, xin thống suất quân bản bộ ra đối phó với quân địch.
Hoàng Quỳnh thấy có người gánh vác được việc nặng cho mình thời ưng ngay. Tức thời cho Đỗ Tiêu đem 300 quân bản bộ ra thành nghinh địch.
Đỗ Tiêu đem quân vừa ra khỏi thành được hơn hai dặm, thời gặp được toán quân của Triệu Quốc Đạt tới nơi. Tức thời hai bên đều dàn thành trận thế. Đỗ Tiêu trông thấy Triệu Quốc Đạt liền quát to lên rằng:
- Bớ tặc tướng! Mi không biết thân mi ư? Mi là dòng giống hèn mạt, dám kéo quân đến đây, để mượn tay ta giết chết hay sao? - Triệu Quốc Đạt nghe nói đùng đùng nổi giận không thèm trả lời, múa thương xông sang đánh nhau với Đỗ Tiêu. Vừa đánh mới được độ hơn mười hợp, bỗng Triệu Quốc Đạt giật ngựa chạy quay về bản trận. Đỗ tiêu múa đao đuổi theo. Mới được có sáu, bảy mươi thước, bỗng Quốc Đạt quát to lên một tiếng, quày thương lại đâm một cái suốt vào cổ Đỗ Tiêu. Đỗ Tiêu không kịp kêu, lộn nhào xuống ngựa mà chết.
Tức thời Quốc Đạt giơ thương lên vãy một cái, cả toán quân đều xô sang trận quân Ngô, chém giết túi bụi. Quân Ngô bấy giờ đã mất tướng, thời chỉ có việc là ngửa cổ chịu chết, không còn dám đánh trác gì nữa. Triệu Quốc Đạt chỉ huy quân sĩ giành giật một hồi, rồi đuổi sát vào tận bên thành, chia quân bổ vây cả bốn mặt.
Hoàng Quỳnh ở trong thành, nghe thấy tin báo ấy thời sợ khiếp không còn hồn vía nào nữa, liền truyền lệnh cho quân sĩ hãy cứ đóng cổng thành lại mà cố thủ. Một mặt họp tất cả mưu sĩ lại để bàn việc quân cơ. Bàn tán suốt một nửa ngày mà vẫn không tìm ra được kế sách gì cự địch. Bỗng có mấy tên quân ở ngoài thành chạy vào báo rằng: - Hiện quân Nam ở ngoài đánh riết quá, bao nhiêu quân ta phòng bị ở trên mặt thành, đều bị quân Nam dùng tên thuốc bắn, hoặc buộc đá vào dây mà ném, quân ta chết lăn xuống vô số.
Hoàng Quỳnh nghe báo lại càng sợ, cả bọn mạc khách cũng cứ giương mắt nhìn nhau. Mãi về sau mới có một người nói lên rằng:
- Cứ xem tình thế thì quân Nam họ giỏi lắm, các hàng tướng tá ở trong thành quyết không phải là tay đối địch được với họ. Bây giờ chỉ có một cách là sai người đi triệu hồi toán quân của Đặng San về cứu thành, thời họa may mới có thể thoát nạn được. Hoàng Quỳnh nghe nói lấy làm phải, liền sai người thừa lúc ban đêm ròng dây trèo ra ngoài thành rồi lẩn đi đường tắt đem thơ cáo cấp báo với Đặng San.
Nói về Triệu Quốc Đạt sau khi đã giết chết được tướng Ngô, kéo quân thẳng đến vây thành huyện Cư Phong, đã tưởng rằng chỉ trong một vài ngày là đã lấy được huyện thành như chơi.
Chẳng ngờ thành huyện ấy rất là kiên cố, mà bên ngoài hào lại vừa sâu vừa rộng, nên suốt trong ba ngày ròng rã mà vẫn không tìm được kế gì đăng thành. Quốc Đạt thấy việc lấy thành chậm chạp như vậy, thời rất lấy làm bực mình. Ngày hôm ấy, đã là sang ngày thứ tư, tự mình cưỡi ngựa đi nẻo khắp xung quanh bốn mặt ngoài thành, trong ý nghĩ vừa toan truyền bắc phù kiều164 và dùng vân thê� để trèo thành. Bỗng trông về đằng phía Tây, thấy cát bay mù trời, vội sai thám mã đi dò xem Một lát thám mã về báo có một toán quân Ngô ước tới bốn, năm trăm người, đang hăm hở xông về hướng thành. Đi đầu có một lá cờ trên đề chữ “Đặng”, chúng tôi không rõ viên chủ tướng là người nào.
Triệu Quốc Đạt nghe báo thì giật mình buột miệng nói:
- Nếu cờ đề chữ Đặng, thời viên chủ tướng ấy tất là Đặng San rồi. Người ấy, vừa có võ dũng lại có thao lược, ta không thể coi thường được, nói rồi, liền vội vàng về trướng sai mấy viên tì tướng thống suất một nửa quân tiến thẳng ra phía Bắc để nghênh địch toán quân đến cứu.
Nói về Đặng San sau khi đã tiếp được mệnh lệnh của Hoàng Quỳnh, liền vội vàng đang đêm ngầm rút cả hai toán quân thẳng đường về cứu Cư Phong. Khi còn cách thành ước độ năm dậm thời đã gặp ngay toán quân của Quốc Đạt. Hai bên không nói năng gì, liền chỉ huy quân sĩ hỗn chiến một hồi, ước tới nửa giờ, cả hai bên đều không chia được thắng thua, sau vì ngày đã gần tối, nên cả hai bên đều hạ lệnh thu quân.
Mới mờ sáng ngày hôm sau, Quốc Đạt chưa kịp nai nịt, đã nghe bên trại quân Ngô chiêng trống rầm trời, vội vàng truyền mở trại xuất quân, khi ra tới cửa trại, đã thấy quân Ngô đông như kiến cỏ, vây bọc xung quanh trại mình. Ở trên thành huyện Cư Phong cũng đánh trống giúp oai, Quốc Đạt thất kinh mà rằng:
- Thôi, thế này là ta mắc mưu thằng Đặng San rồi.
Nói rồi, toan truyền lệnh phá vây xông ra, nhưng lại nghĩ nếu mình cố phá cho được tan vòng vây, thời quân sĩ của mình thế nào cũng bị chết hại. Khi thoát ra vòng vây, thể nào cũng phải cắm đầu mà chạy. Thế ra đương thắng trận mà biến thành bại trận, còn ra trò trống gì nữa. Âu là ta hãy cứ gan lì đóng vây quân trong trại này, mặc cho chúng vây, hiện lương thực cũng còn được bảy, tám ngày; ta cho về cáo cấp với hiền muội ta cũng có thể kịp… Nghĩ vậy, liền lại hô quân quay cả vào trong trại. Xung quanh trại mai phục sẵn quân cung nỏ, hễ quân Ngô vào gần tới nơi thì bắn.
Tối hôm ấy, Quốc Đạt sai một tên đầy tớ tâm phúc mang thư cáo cấp, lẩn lút vào trong các bụi rậm, khe sâu, trốn thoát ra ngoài vòng vây, về thẳng Nông Cống cáo cấp.
Nói về Nhụy Kiều tướng quân sau khi sai Quốc Đạt đi được vài hôm, đã tiếp được tin báo tiệp165 ở Cư Phong gửi về, thời xiết nỗi vui mừng.
Cách hôm sau nữa, lại tiếp được tin cáo cấp gửi về. Ngài vì nóng lòng muốn cứu anh, nên không hề do dự, quyết kế tự thống đại binh tiến thẳng sang Cư Phong.
Khi còn cách huyện thành Cư Phong ước độ 15 dậm, Nhụy Kiều phóng ngựa lên trên một đỉnh đồi cao, trông về phía thành Cư Phong. Thấy trên mặt thành quân Ngô đi lại đông như mắc cửi. Cách thành độ ba dậm, một trại quân đóng hình tròn, giữa trại có một lá cờ đại, trên phảng phất như có một chữ “Triệu”; cách tòa dinh trại ấy chỉ độ nửa dậm, toàn là trại quân Ngô, bốn phương, tám mặt, san sát như bát úp; quân tuần tiễu166, quân du kích, đi lại lũ lượt…
Nhụy Kiều ngoảnh lại bảo Quốc Thành:
- Cứ cách bao vi167 thế kia, thời quân ta dù có cánh cũng khó lòng bay ra thoát được. Giờ ta muốn cho một người đột vây xông vào, báo cáo cái tình hình viện binh cho huynh trưởng biết, chẳng hay em có thể đương được việc ấy chăng?
Quốc Thành hớn hở mà rằng:
- Nếu chị cho đi, em xin đi ngay. Em quyết không dám làm lỡ việc.
Nhụy Kiều chưa kịp nói, Quốc Thành lại nói tiếp:
- Thưa chị, em xin đi ngay bây giờ…
Nhụy Kiều lắc đầu nói:
- Để hãy hạ trại xong đâu đấy đã, có đi đâu mà vội.
Nói rồi phóng ngựa xuống đồi, truyền tiến quân lên gần thêm năm dậm nữa mới hạ trại.
Sau khi hạ trại xong thời ngày vừa tối, Nhụy Kiều lên trướng, gọi Quốc Thành và bảo rằng:
- Em khá kén lấy 50 tên quân cảm tử, theo đường Tây Bắc xông thẳng vào vòng vây, nói với huynh trưởng cứ yên giữ trong trại, chờ đến nửa đêm mai, hễ nghe thấy bên ngoài có tiếng pháo nổ, thời huynh trưởng sẽ đem toàn quân xông ra nội ngoại giáp công…
Nhụy Kiều nói đến đấy lại gọi Quốc Thành lại gần bảo nhỏ rằng:
- Em khá nói nhỏ với huynh trưởng, chỉ trong đêm mai chẳng những chị phá tan được vòng vây, cứu thoát huynh trưởng mà chị lại còn lấy được cả huyện thành Cư Phong đó.
Quốc Thành vâng mệnh lui ra, nghĩ thầm trong bụng: - Phá tan được vòng vây đã là khó, thế mà chị ta lại còn chực lấy được cả huyện Cư Phong, thật là một nhời nói khoa đại chẳng lấy gì làm chắc… - Tuy trong bụng Quốc Thành hồ nghi như vậy, nhưng vì Quốc Thành vốn sợ quân lệnh của Nhụy Kiều rất nghiêm, nên vẫn cứ phải lẳng lặng kéo quân đi…
Sau khi Quốc Thành lĩnh quân đi khỏi, Nhụy Kiều lại gọi Ngô Thúc Đoan vào trong quân trướng bảo rằng:
- Ngươi khá đem 100 quân, dùng toàn trống lớn ra phục ở phía Đông Nam trái đồi, chỗ ấy chỉ cách trại quân Ngô hơn một dặm. Hễ khi nào nghe đằng phía Tây Bắc có tiếng quân ta hò reo thời ngươi khá truyền quân sĩ đánh reo hò rầm lên, chờ khi nào toán quân của Quốc Thành đã vào thoát vòng vây rồi, ngươi khá dẫn quân lẳng lặng về trại ta sẽ trọng thưởng…
Thúc Đoan lĩnh mệnh lui ra, trong bụng phân vân nghĩ ngợi: - Quái! Đem quân đi mai phục, chẳng bảo đánh nhau, chỉ bảo đánh trống để reo hò không là nghĩa gì, cái cách hành binh của chủ tướng thật là quái lạ. - Ngô Thúc Đoan đương nghĩ ngợi bỗng gặp Tả dực tướng quân Dương Cự Xuân, liền thuật chuyện ấy cho Cự Xuân nghe, Cự Xuân cười mà rằng:
- Đó là cái kế nghi binh của chủ tướng, không làm như thế thì Quốc Thành vào lọt thế nào được trong vòng vây.
- À, à! Thế đó. Có cái kế thế mà mình không biết, chả trách mình cứ làm đầy tớ suốt đời là phải. - Thúc Đoan nói xong, liền vội vã dẫn quân đi.
Nói về Đặng San sau khi đã bổ vây Quốc Đạt, hàng ngày cho quân xông vào phá trại, nhưng quân trong trại bắn ra riết, không sao phá được. Đặng San nghĩ bụng: âu là ta cứ bao vi mãi, đến lúc hết lương, thể nào nó cũng phải đầu hàng, bất tất phải đánh làm gì cho nhọc sức. Nghĩ vậy liền truyền lệnh quân sĩ, cứ bọc vòng vây cho kỹ không cần vào đánh nữa.
Đến hôm thứ năm, bỗng quân tế tác về báo: cách thành hơn mười dặm, có một toán quân rất đông hạ trại, trên cờ đề bốn chữ “Nhụy Kiều tướng quân”. Đặng San nghe báo giật mình nói với chư tướng:
- Tên nữ tặc Triệu Thị Trinh nó khởi binh từ vùng Nông Cống cách đây hơn năm dặm đường, cớ sao đã đến đây được chóng thế?
Tì tướng Cao Củng nói:
- Mạt tướng nghe tin tên nữ tướng ấy giỏi lắm, có mấy hôm mà đã lấy được cả hai huyện Nông Cống và Đô Bàng. Giờ đem quân đến đây xin chủ tướng nên đề phòng cẩn mật mới được.
Đặng San nghe xong, gật đầu cho làm phải, rồi nai nịt lên ngựa, đi diễu khắp vòng vây một lượt, truyền lệnh cho các tướng tá ở các trại khác phải canh phòng cho cẩn mật hễ để lọt cho một tên địch nào ở ngoài lọt vào hay ở trong thoát ra đều phải tội chém.
Các tướng tá đều vâng lệnh, không một ai dám he.
Đêm hôm ấy, Đặng San ngồi trong quân trướng, xem xét lại mấy bản địa đồ thuộc về việc quân, bất giác đã quá canh hai mà vẫn không ngủ được. Bỗng nghe đằng phía Tây Bắc, chiêng, trống, tù và đánh thổi vang lừng, xen lẫn cả với tiếng quân reo ầm ĩ. Đặng San giật mình, giậm chân xuống đất, nói một mình: - Thôi, lại quân giặc nó chực thừa hư đột vây vào cứu quân trong rồi.
Nói dứt nhời, vội vàng khoa chiếc tử kim thương, nhẩy phắt lên ngựa xông ra ngoài trại, nhằm thẳng về phía Tây Bắc phới đi168, vừa mới đi được một đoạn đường bằng ba quãng ném, bỗng lại nghe phía Đông Nam tiếng trống, tiếng reo vang lừng rầm rĩ…
Đặng San lại càng cả kinh, lẩm bẩm nói một mình: - Chết chưa! Quân nó xông vào cả hai mặt thế này, thời ta đối địch làm sao được bây giờ?... - Còn đang lúc lẩm bẩm chần chừ, bỗng một toán bại binh từ phía Tây Bắc chạy đến, trông thấy Đặng San, đều kêu rầm lên rằng:
- Bẩm tướng quân, nguy to mất rồi! Có một tên tướng giặc bé con, nó giỏi quá, nó chỉ đem theo độ 50 tên quân phá tan vòng vây xông vào, giết quân ta mất vô số. Hiện giờ nó đã xông thẳng vào các trại bị vây ở giữa rồi.
Đặng San nghe xong, thở dài mà rằng:
- Ta đã truyền cho phòng bị cẩn thận đến thế, mà sao còn để cho nó xông vào được? Thật chúng bay đều là đồ vô dụng!
Nói rồi, quày ngựa, toan thẳng ra phía Đông Nam, lắng tai nghe thời tiếng trống, tiếng reo hò cũng đều im bặt. Đặng San không hiểu ra làm sao, vội sai mấy tên kỵ tốt phóng ngựa thẳng ra các trại phía ấy dò thám xem sao…
Một lát mấy tên kỵ tốt đều đã chạy về, bẩm với Đặng San rằng:
- Vừa rồi ở đằng Tây Bắc có tiếng trống và hò reo, thời ở đằng ấy cũng có tiếng trống và hò reo, các tướng tá về phía dinh đằng ấy, đều sắp sửa để cự địch, nhưng không thấy gì cả. Hiện giờ ở đằng ấy lại im phăng phắc, không hiểu ra làm sao…
Đặng San nghe báo xong, mới hình như tỉnh ngộ, thở dài mà rằng:
- Thôi thế là ta bị trúng kế nghi binh của nó rồi. Không ngờ quân mọi rợ mà lại có cái kế gian quyệt như thế...
Nói rồi, quay về quân trướng sai người đi tra xét số quân tổn thiệt về phía Tây Bắc là bao nhiêu… Một lát về báo rằng: - Tất cả quân tướng chết mất 107 người. - Đặng San nghe xong, chỉ lắc đầu thở dài không nói gì. Ngày hôm sau Đặng San sai quân đi thám xem toán quân mới đến có động tĩnh gì không… Tên quân đi thám về báo: - Vẫn thấy im lặng, không hề có động tĩnh gì hết…
Đặng San lấy làm ngờ, lại sai đi thám lại, hồi lâu, chúng về báo rằng: - Nghe đâu quân Nam tuy đã kéo đến đây, nhưng còn chờ toán quân đem lương thực chưa đến, lại nghe đồn toán quân tải lương thực bị cướp ở dọc đường hết sạch, nên toán quân này không khéo thời đến phải lui, chưa chắc có dám đánh… - Đặng San nghe báo xong, vẻ mặt tươi cười, giơ tay lên trán mà rằng:
- Nếu vậy thời thật là hồng phúc của quân ta đó!
Đêm hôm ấy, Đặng San vẫn cứ truyền lệnh cho quân sĩ phòng bị trận tuyến như thường. Vào khoảng gần nửa đêm, Đặng San đang mơ màng trong giấc điệp, bỗng nghe tứ phía tiếng trống rầm trời, tiếng loa dậy đất, liền hoảng hốt từ trên giường nhảy chồm xuống, vớ lấy chiếc tử kim thương chạy ra ngoài trại, thời đã thấy bốn phương tám mặt, đuốc sáng như sao, tiếng loa, tiếng tù và om sòm inh ỏi, không còn phân biệt được chỗ nào là quân mình chỗ nào là quân địch… Đặng San hốt hoảng gọi quân lấy ngựa, nhưng khốn nạn bao nhiêu thân binh, đều đã ôm đầu trốn chạy từ lúc nào rồi. Bất đắc dĩ đành phải khoa thương nhằm thẳng phía Tây Bắc mà tiến… Bỗng nghe thấy tiếp luôn tám, chín tiếng pháo nổ, hầu như long trời lở đất… Đặng San không hiểu ra thế nào, cứ việc cắm đầu mà đi… Vụt một cái, một toán quân từ khu giữa xông ra, có ước tới hai, ba trăm bó đuốc, ủng hộ một viên đại tướng, tay cầm trường thương, cưỡi trên con ngựa Ô vân, vùn vụt át tới, trông thấy Đặng San, viên tướng ấy khoa thương quát lớn:
- Đặng San! Mi đã trông thấy Triệu Quốc Đạt chưa? Muốn tốt thời dừng lại, nộp đầu đây…
Đặng San thấy vậy thời căm tức lạ thường, vội khoa thương xong lại đánh nhau với Quốc Đạt. Đặng San tuy giỏi võ nhưng một người trên ngựa một người dưới đất, tình thế đã khác nhau, lại trong lòng đương lúc phân vân, nên khí lực cũng giảm mất nhiều. Thấy đánh nhau với Quốc Đạt đã tới hơn mười hợp, thương pháp của Quốc Đạt càng ngày càng hăng mà tự mình thời mồ hôi đã ướt đẫm cả áo, biết thế không thể địch được, liền gạt vờ một thương, quày đầu nhằm về phía thành mà chạy… Mới chạy được một quãng, thấy một toán quân chạy bạt về phía Nam, nhận kỹ dấu hiệu, mới biết là quân mình, liền dừng lại cất tiếng gọi… Toán quân ấy vừa chạy vừa kêu:
- Anh em chúng tôi chết gần hết rồi! Xin chủ tướng chạy mau, kẻo khó lòng thoát được!
Đặng San nghe vậy, thời nát gan nát ruột, chỉ những muốn kêu lên trời một tiếng cho đỡ đau xót…
Bỗng đằng trước mặt, vụt đến một viên tướng, chỉ vào mặt Đặng San mà quát:
- Thằng chó chết này vẫn còn quanh quẩn ở đây à? Triệu Quốc Thành chờ mi đã lâu rồi. Mau mau đem đầu nộp đây!...
Đặng San chẳng còn kịp trả lời, vội vung thương lại cự chiến. Quốc Thành tay sử169 một chiếc phương thiên hoạch kích vùn vụt tung lên gạt xuống, thích dọc đâm ngang, khiến cho Đặng San không còn kịp trở tay, đành phải bại trận nhắm về phía thành mà chạy. Quốc Thành thấy Đặng San chạy, không chịu đuổi, cười khành khạch mà rằng:
- Được, cho mi cứ chạy ra đằng ấy, cho tiện lối xuống âm phủ…
Đặng San tuy nghe rõ tiếng nói của Quốc Thành nhưng cũng không hề để ý, cứ việc cắm đầu mà chạy. Còn cách thành ước độ hơn nghìn thước, bỗng nghe thấy tiếng kêu gào bên ven bờ ruộng, Đặng San dừng lại lắng tai nghe, thấy có tiếng người kêu rằng:
- Tướng quân ơi! Xin tướng quân chạy mau đừng trở vào thành nữa. Thành đã bị quân giặc lấy mất rồi. Quan Huyện lệnh bị viên tướng giặc “đàn bà” giết mất rồi. Tôi đây là Hà Ứng giữ chức phòng thành, chạy trốn ra đến đây thời bị bắn nằm phục xuống đây không đi được nữa.
Đặng San nghe dứt tiếng nói ấy, trong bụng còn hồ nghi, cứ cắm đầu nhằm về phía thành mà chạy. Khi gần đến điếu kiều, bỗng nghe ở trên mặt thành có một hồi thanh la, tiếp luôn mấy tiếng tù và, rồi đuốc bựt lên sáng như sao sa đầy trên cả mặt thành, một viên nữ tướng đứng ở trên địch lâu, chỉ vào mặt Đặng San mà thét:
- Bớ Đặng San! Thành trì ta đã lấy rồi! Thôi mi hãy đứng đấy, ta sẽ cho mi đi theo viên Huyện lệnh, cùng về nơi chín suối cho có bầu có bạn…
Đặng San nghe mấy lời nói của Nhụy Kiều, thời khí uất bốc lên ngùn ngụt, vừa toan rút gươm tự vẫn, thời một mũi tên vụt xuống xuyên qua cổ tức thời lăn quay ra mà chết.
Sau khi Nhụy Kiều đã bắn chết Đặng San, liền truyền lệnh cho thu tất cả toàn quân vào thành. Khi mọi việc thu xếp vừa xong thì trời đã sáng rõ. Nhụy Kiều sai kiểm binh mã của mình thời trong 1.200 quân, vừa là quân kỵ, vừa là quân bộ, chỉ chết có hơn mười người, còn bên quân Ngô thì chết không biết bao nhiêu mà kể.
Thế là chỉ có một nửa đêm mà Nhụy Kiều đã phá tan mất được đám quân rất kiêu dũng của Đặng San, lại giết chết được Đặng San, cứu thoát được Triệu Quốc Đạt, thu phục được huyện thành Cư Phong và giết chết được viên Huyện lệnh Cư Phong. Vì một trận đánh ấy mà cái danh tiếng của Nhụy Kiều lại càng nổi lên lừng lẫy. Bao các quân Ngô, tướng Ngô ở các châu, huyện xung quanh gần đó đều sợ hãi mất mật, từ trên chí dưới, vì sự quá sợ quên mất cả là kẻ thù rồi cùng gọi Nhụy Kiều là “Lệ Hải Bà Vương”170.
Vì bên quân ta, thấy người Ngô họ xưng hô như vậy, ai nấy cũng đều lấy làm hỉ hả. Rồi bọn Ngô Thúc Đoan, Dương Cự Xuân, đều vào yết kiến Nhụy Kiều, xin tôn Nhụy Kiều lên làm Lệ Hải Bà Vương. Nhụy Kiều cười mà rằng:
- Ta đây sở dĩ quên mình là tấm thân con gái, mà thanh gươm yên ngựa xông pha trong cõi chiến trường, mục đích là cốt để cứu quốc dân ta ra khỏi vòng nước lửa chứ có phải là ta ham cái danh nọ vị kia mà làm nên những công việc ấy đâu. Vả bốn chữ “Lệ Hải Bà Vương”, chẳng qua chỉ do miệng quân Ngô, chúng nó vì sợ hãi mà gọi liều. Còn như ta, nếu lòng trời có tựa nước non này, thời Đức vua Trưng ở My Linh171, là một bực mở đường dẫn lối cho ta trước đó. Ta đã theo, thời tất ta phải theo Ngài, ta sẽ làm vua cả toàn cõi Viêm bang, chứ có khi nào ta lại chịu làm vua trong một vùng Lệ Hải này, nhưng thôi đó là ta nói cái chí hướng của ta. Còn như bây giờ, nếu các ngươi muốn tôn ta, như cái khẩu hiệu của quân Ngô, thời ta cũng ưng, để cho càng được tráng quân thanh khi chiến trận.
Nhụy Kiều nói xong bọn Ngô Thúc Đoan đều lấy làm vui mừng, rồi cúi đầu lui ra, báo cáo mệnh lệnh ấy cho toàn quân đều biết. Thế là từ đó, khắp trong quân, ai nấy cũng đều gọi Nhụy Kiều là Vua Bà, mà không xưng là chủ tướng như trước nữa.
Cách đó mấy hôm, bọn Lý Mão ở An Quyết, cũng đem toàn quân đến quy thuận, Vua Bà cho đứng riêng coi một toán quân của mình và phụ thuộc vào với toán quân của Triệu Quốc Đạt làm quân tập hậu.
Lại cách mấy hôm, Vua Bà đang trù bị kế hoạch, định tiến quân lên lấy thẳng Cửu Chân, bỗng tiếp được một tin báo, như tiếng sét đánh ngang tai, Vua Bà giật nẩy mình, tái mét mặt đi, không còn hồn vía nào nữa…
|
|
|
 |
|
|
 |
14.09.2018, 14:08 |
|
V.I.P
|
|
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36 Tuổi: 35 Bài viết: 35935 Được thanks: 6059 lần Điểm: 9.62
|
|
 Re: [Xuất bản - Lịch sử] Vua Bà Triệu Ẩu - Nguyễn Tử Siêu - Điểm: 10
HỒI THỨ XII
Hồng Lĩnh muôn trùng, xông pha trăm trận, Bồ Điền một miếu, hương khói nghìn thu
Nói về Lã Đại sau khi được lĩnh chức Giao Châu mục, cậy có quyền thế ở trong tay, thi hành toàn chính sách tàn khốc. Vì thế mà trong có hơn một năm, những đảng phản đối khởi lên tứ tung. Tại huyện Vô Biên có đảng cờ đỏ, chủ tướng là Lê Mai, khởi lên đánh phá thành huyện. Tại huyện Dư Phát có anh em Mục Hoàn, khởi lên giết quan Huyện lệnh, rồi chiếm lấy huyện, chiêu binh, mãi mã để mưu việc đại cử; tại Vô Thiết có bọn Chiếng Cầu, Chiếng Sao, tụ họp ở trong sơn động, đánh phá quân Ngô, giết hại được rất nhiều; tại Cư Phong có toán quân Lý Mão; tại Tư Phố, Nông Cống có toán quân của Vua Bà Lệ Hải…
Nói tóm lại, khắp trong hạt Cửu Chân, không một nơi nào là không có quân khởi lên phản đối, khiến cho Lã Đại trở tay không kịp, bao cái nhuệ khí mới sang, đến bây giờ đã tiêu tán hầu hết.
Tin tức ấy truyền báo đến triều đình Đông Ngô. Tôn Quyền nổi giận, hạ chiếu già giải172 Lã Đại về nước trị tội, rồi phong cho Lục Dận làm chức Giao Châu Thứ sử, lập tức đem theo một vạn quân thủy, bộ sang bình Nam.
Lục Dận vốn là con trai của Lục Tốn thật đã hấp thụ được cái chân truyền của cha rất nhiều. Các người thức giả đời bấy giờ, đều phải công nhận Dận là một vị thiếu niên danh tướng ở triều đình Đông Ngô.
Sau khi Lục Dận đã lĩnh ấn Thứ sử, phụng mệnh sang bình Nam, Dận có đem theo bốn viên mãnh tướng là: Khu Báo, Đỗ Kiệt, Quách Hùng, Mã Khải. Cả bốn người đều có sức tót núi, qua sông, người đời gọi là “Tứ Phàn”, tức là bốn ông Phàn Khoái.
Lục Dận sang đến Giao Châu, đem quân đuổi thẳng vào quận Cửu Chân.
Vừa mới đến quân hôm trước, hôm sau phái ngay 20 tên tế tác đi dò thám quân tình các nơi. Cách mấy hôm, bọn tế tác đã đều về báo hết cả tình hình.
Dận liền triệu tập các tướng tá đến trung quân, bảo rằng:
- Hiện ở trong địa hạt Cửu Chân, nơi nào cũng có đảng loạn. Nhưng duy có mấy nơi to là Dư Phát, Vô Biên, Vô Thiết, Cư Phong, Nông Cống. Tựu trung năm nơi ấy, chỉ có một đảng ở Nông Cống là đáng chú ý hơn hết. Ta nghe viên tặc tướng ở đấy là đàn bà, vừa có võ dũng, lại có mưu lược, không kém gì Trưng Trắc, Trưng Nhị ngày xưa. Bởi thế nên nó khởi binh lên có mấy ngày, mà đã lấy được cả Nông Cống, Đô Bàng, lại thừa thắng sang lấy cả huyện Cư Phong, hiện giờ quân của nó tuy là có ít nhưng thao luyện rất tinh… Đảng ấy, ta chỉ nên trí thủ mà không lực địch173… Còn đảng ở Cư Phong, thời nghe đâu nó đã về theo với đảng Nông Cống rồi. Giờ trước hết ta hãy trừ khử bỏ mấy đảng nhỏ kia. Vậy trong các ngươi, ai dám vì bản súy đi dẹp ba đảng Dư Phát, Vô Biên, Vô Thiết nào?...
Lục Dận hỏi dứt nhời, thời Khu Báo tình nguyện xin đi Dư Phát, Đỗ Kiệt tình nguyện xin đi lấy Vô Biên, Mã Khải tình nguyện xin đi lấy Vô Thiết…
Lục Dận đều cấp cho mỗi tướng là 1.000 quân vừa mã vừa bộ tức nhật khởi hành174.
Nói về Khu Báo, Đỗ Kiệt, Mã Khải, vốn là ba tay tướng giỏi, lại có kế sách của Lục Dận bày cho, nên chỉ trong vòng có hơn nửa tháng mà cả ba nơi loạn đảng đều đã dẹp yên. Ba tướng dẫn quân đắc thắng về Cửu Chân phục mệnh. Lục Dận thấy đã dẹp yên được ba đảng rồi, liền lấy của trong kho ra, cấp cho mấy viên du thuyết, đi dụ những đảng nhỏ. Hễ đảng nào chịu ra hàng thời ban thưởng rất nhiều. Không bao lâu, khắp trong hạt Cửu Chân, trừ toán quân của Vua Bà và Lý Mão ra không còn một đám loạn quân nào nữa. Bấy giờ Lục Dận lại họp chư tướng bảo rằng:
- Hiện giờ viên nữ tặc mà chúng ta quen gọi là Bà Vương, còn đóng quân tại Cư Phong. Vậy ta nên thừa hư đem quân thu phục lấy hai huyện Đô Bàng và Nông Cống. Tại hai nơi đó, chắc Bà Vương cũng có lưu mãnh tướng bảo thủ, nhưng nếu ta dùng kế “Tật lôi bất cập yểm nhĩ175” thời cũng có phần thắng lợi được. Sau khi đã lấy được hai nơi ấy, thời Bà Vương dẫu có tài hơn Quản, Nhạc176, cũng phải bị thua ở tay ta.
Các tướng nghe Lục Dận nói, đều lấy làm khâm phục, không còn ai dám dị nghị điều gì. Tức thời Lục Dận sai Mã Khải đem 500 quân đi lấy Đô Bàng, Khu Báo đem 500 quân đi lấy Nông Cống. Quách Hùng đem 1.000 quân tiến đánh thẳng vào đại dinh ở An Phổ. Lục Dận lại truyền cho các tướng: “Phàm tướng Nam nào hàng, phải kính đãi tử tế, quân Nam có tên nào hàng, cấp cho lương thực rất hậu. Quân đi đến đâu, phải nghiêm túc, cấm không được cướp bóc hà hiếp lương dân.”
Các tướng lĩnh mệnh đi rồi, Lục Dận tự thống lĩnh bốn vạn quân mã bộ, đến đóng trại ở dưới núi Hồng Sơn, đề phòng đại chiến với Vua Bà.
Nói về Phan Thái Tâm đóng quân ở Đô Bàng, bỗng nghe thám mã về báo: Lục Dận sai đại quân đến đánh. Thái Tâm giật mình mà rằng:
- Vua Bà đi vắng, mà địch binh thừa hư đến đánh, ta biết làm thế nào bây giờ?... - Nói rồi, vội vàng hội họp chư tướng lại để bàn kế công thủ. Sau một hồi bàn luận, Thái Tâm quyết kế cố thủ không ra đánh. Mã Khải đã dò thám biết trước là tướng Nam dùng kế cố thủ, liền hạ trại ngay từ ngoài xa cách thành hơn 10 dậm. Chập tối hôm ấy, Mã Khải truyền lệnh các quân sĩ đi vào trong các trang, trại xung quanh mua lấy 100 gánh rơm, rồi cứ đon177 lại từng bó nhỏ, vừa sức một người ôm, làm thành ba, bốn trăm bó. Nhưng việc hành động phải rất là bí mật. Vào khoảng hết canh một sang canh hai đêm hôm ấy, các việc làm đã tề tựu, Mã Khải liền truyền lệnh đem rơm ấy tẩm ướt đi, rồi cùng vác tất cả, ngầm tiến thẳng đến thành huyện Đô Bàng, lúc đi đường phải im cấm thì thào trò chuyện, khi đi đến nơi, hễ ai ném được bó rơm trước nhất vào chân thành thời được đầu công. Truyền lệnh rồi, Mã Khải tự thống suất 100 quân cảm tử, vùn vụt theo sau. Vào khoảng đầu trống canh ba thời toán quân của Mã Khải đã đến chân thành Đô Bàng. Một tiếng lệnh đánh lên, tức thời ngót 400 bó rơm đều ném tất cả vào chân thành. Chỉ một thoáng mắt, mà rơm đã chất cao bằng mặt thành, tức thời Mã Khải đem quân cảm tử theo chỗ rơm chất ấy mà đăng thành… Giữa lúc đó Phan Thái Tâm đương đem quân đi tuần tiễu trên mặt thành, bỗng nghe tiếng lệnh, rồi kế đến tiếng reo hò, biết là quân Ngô đánh úp, vột vàng đem quân đến chỗ góc thành có tiếng hò reo để cự địch. Đến lúc thấy chúng ném rơm vào chân thành, biết là quân Ngô dùng kế mạo hiểm để đăng thành, liền vội vàng sai quân đốt đuốc ném xuống. Nhưng vì rơm của quân Ngô đã tẩm ướt, nên đốt đước dầu ném xuống mà cũng không cháy được. Đương lúc luống cuống, chưa biết dùng cách đối địch ra sao thời vụt một cái Mã Khải đã nhảy lên tới nơi. Phan Thái Tâm không còn tâm can nào nữa, vội vàng xông lại cự địch. Nhưng chỉ đánh nhau được độ hơn mười hợp, thời cả toàn quân cảm tử của Mã Khải đã lên tới nơi. Chúng chia nhau ra, toán thời đánh nhau với quân Nam, toán thời xông ra phá cổng thành. Chỉ độ dập bã trầu, quân Ngô đã kép ùa vào thành như đê vỡ… Thái Tâm trông thấy tình thế như vậy, bất giác hoảng người lên, trùng tay lại, thương pháp thành ra rối loạn… Tức thời bị Mã Khải đâm cho một nhát vào sườn, ngã lộn xuống thành mà chết.
Thái Tâm đã chết, quân Nam đều rồi loạn, Mã Khải tiến thẳng vào trong thành, truyền lệnh đánh chiêng thu quân. Quân lệnh vừa truyền ra thời trời vừa tảng sáng. Mã Khải sai vời tất cả các quân sĩ đầu hàng đến cấp phát cho tiền lương rất tử tế.
Mã Khải lại khuyên bảo chúng rằng:
- Chúng bay về nhà, nên đem cái ân đức của quan lại Thiên triều mà báo cáo cho già trẻ đều biết. Quan lại Thiên triều lúc nào cũng thương yêu dân Giao Châu như xích tử178. Chỉ chăm lo cho dân Giao Châu được yên cư lạc nghiệp mới lấy làm vừa lòng. Chỉ những kẻ quá ác mới phải giết bỏ đi, để nó khỏi làm hại dân lành đấy thôi. Chúng bay thử ngẫm: như chúng bay hiện giờ, nếu không gặp được quan lại Thiên triều, thời đã đầu bêu ngọn cỏ hết rồi, chứ còn ai cấp phát cho tiền lương, để về vui sướng với vợ con nữa! Vậy chúng bay đã được sống mà về, nên đứa gần bảo đứa xa, đứa khôn bảo đứa dại, đừng nghe những lời siểm súc của quân cường bạo, nên mau mau quay đầu về thuận với Thiên triều, thiếu lương ta cấp cho lương, thiếu áo ta cấp cho áo. Chả hơn là cứ làm càn làm bậy, để đến lúc chịu chết chém cả nút hay sao?
Mã Khải dẫn dụ xong, lại sai mổ trâu, mổ bò, cho chúng đánh một bữa chén “túy lúy càn khôn” rồi mới cho về. Vì mấy lời nói ngon ngọt ấy, vì mấy quan, mấy đấu tiền lương ấy, vì bữa chén say no ấy… mà cái tiếng quan lại nhà Ngô là nhân đức, đã dồn đi khắp cả xa gần.
Bấy giờ Vũ Lăng Chấn trấn thủ ở Nông Cống, bỗng nghe thấy tin báo huyện Đô Bàng thất thủ, Phan Thái Tâm tuẫn nạn179, thời không còn hồn vía nào nữa. Vừa toan triệu tập các liêu thuộc lại để bàn việc quân cơ, bỗng thấy hai viên hiệu úy vào trình rằng:
- Bẩm chủ tướng, hiện số quân ở trong thành ta, cả mã, cả bộ có 810 người. vậy mà không biết vì cớ sao, buổi hiệu duyệt sáng nay, chúng tôi chỉ còn đếm được có 632 người. Vậy xin trình để chủ tướng xét.
Vũ Lăng Chấn nghe trình xong, càng tái cả người đi. Vội tự mình ra giáo trường điểm duyệt lại quân sĩ, quả nhiên thấy thiếu hẳn đi mất ngót 200 quân. Lăng Chấn liền mật sai mấy tên tâm phúc đi dò xét xem sao. Mãi rồi sau mới biết là vì sự khuyên dụ của quân Ngô, nên lòng quân ai nấy cũng đều có ý chán nản. Lăng Chấn nghĩ bụng: - Nếu mình không tìm cách nào để vãn hồi lại, thời có lẽ chỉ trong mấy ngày nữa là chúng bỏ trốn hết. Đến lúc ấy, lỡ quân Ngô kéo đến, mình dù có tài thánh cũng khó lòng chống cự được…
Nghĩ vậy liền lui về dinh, bàn với mấy người tâm phúc, rồi truyền lệnh giết trâu, mổ bò để khao thưởng quân sĩ. Lăng Chấn muốn nhân lúc đang chè chén, đem lời nghĩa khí ra để khuyến khích. Vì Lăng Chấn cho là cái kế sách ràng buộc quân chưng không gì bằng cho chúng tiền của dồi dào, ăn uống no say. Nếu hai thứ mồi ấy đã sẵn có trong tay, thời có thể sai chúng nhảy vào nước sôi, đâm vào lửa nóng, cũng dễ như chơi…
Chẳng ngờ, ôi, thật là một việc chẳng ngờ!... Đúng giờ Ngọ ngày hôm sau, chính đang lúc lính 600 quân cùng nhau chè chén vui cười, Lăng Chấn còn muốn đợi cho chúng ăn uống xong đã mới giảng giải nghĩa lý, bỗng có tên quân tế tác hốt hoảng về báo rằng:
- Đồn An Phổ đã vỡ, tướng trấn thủ là Trần Quý đầu hàng. Hiện viên tướng đánh An Phổ là Quách Hùng, đã hợp binh với viên tướng đánh Đô Bàng là Mã Khải, cùng hiệp với Khu Báo kéo thẳng đến đánh thành này. Cả ba toán quân có tất cả đến ngót 2.000, khí thế rất là hiệu đại…
Bọn quân sĩ đang uống rượu, nghe thấy nhời báo của tên quân tế tác, trước còn ngơ ngác trông nhau, sau thì rì rầm nói với nhau… Bỗng có mấy đứa – chả biết nó táo gan hay là nhát gan, đứng phắt ngay lên, nói mấy câu rõ gọn như đổ đẫy:
- Trốn mau, kẻo chết cả nút giờ!...
Dứt nhời, co cẳng chạy buột ra cổng thành. Viên đội trưởng vừa toan cản lại, thời lại thấy hai, ba mươi đứa ở dẫy bên kia đều ùa theo tháo chạy… Rồi toán năm đứa, toán mười đứa; toán ba, bốn mươi đứa cứ thoăn thoắt nhổm dậy, co cẳng tháo chạy…
Lăng Chấn ngồi trong nghe tiếng ồn ào vội chạy ra, thấy tình hình như vậy, nóng tiết tuốt gươm, chém luôn mấy đứa mà chúng càng chạy già. Lăng Chấn thở dài một tiếng, chống gươm xuống đất, đứng ngây người ra, như tượng gỗ…
Chỉ độ chín nồi mười cơm, lính 600 quân đều co vòi trốn sạch, chỉ còn sót lại có hơn 50 tên quân tâm phúc là vẫn còn đứng ở xung quanh Lăng Chấn. Vừa lúc đó, bỗng nghe thấy phía ngoài thành chiêng trống ầm ầm…
- Quân Ngô đã kéo tới nơi, ra đóng cổng thành mau lên các anh!...
- Đó là nhời bảo nhau của mấy tên quân tâm phúc. Dứt tiếng ấy, chúng đều chia nhau chạy đi đóng bốn cổng thành. Đóng xong, chúng lại chạy về chỗ Lăng Chấn đứng, một tên nói:
- Bẩm chủ tướng, quân Ngô đã bổ vây cả bốn mặt thành rồi, xin chủ tướng truyền kế cự địch…
Lăng Chấn bấy giờ mới hình như hồi tỉnh người lại, thở dài một tiếng, trên hai con mắt tròn xoe thấy gừng có hạt lệ… lắc đầu bảo chúng rằng:
- Còn đánh trác gì nữa! Thôi, ta đành chết thôi, các con ạ!...
Dứt nhời, giọt lệ liền chảy xuống ướt đằm cả hai gò má, không sao ngăn được.
Bọn quân tâm phúc đều cảm động sụt sùi khóc… Rồi một tên cất tiếng nói:
- Xin chủ tướng đừng vội nản chí. Hãy còn bọn 50 anh em chúng con đây. Chúng con xin liều chết đánh nhau với quân giặc, để trả nợ nước, đền ơn Vua Bà, đền ơn chủ tướng. Cứ mỗi chúng con, quyết gắng lên địch lại với mười tên giặc, thời cũng có thể bằng được 500 quân rồi. Vậy ở trong thành còn có 500 quân, thời việc gì chủ tướng phải nản?
Lăng Chấn nghe tên quân ấy nói xong, gật đầu mỉm cười, rồi ngồi phệt xuống đất, bắt vòng tròn chân lại, cất tiếng bảo:
- Nếu vậy, các con hãy ra mở toang cả cổng thành, rồi vào đây ta bảo…
Nghe bảo, chúng ngạc nhiên nói:
- Giặc đánh ngoài thành mà chủ tướng bảo chúng con mở toang cổng thành, lỡ quân giặc ùa vào, thời chống giữ sao kịp?
Lăng Chấn mỉm cười mà rằng:
- Các con tưởng bốn cánh cổng ấy có sức chống được quân giặc hay sao? Lệ thường, giặc đến thời đóng cổng thành, nhưng cái chủ yếu là phải có quân cự thủ ở trên mặt thành, thời sự đóng cổng mới có hiệu lực. Giờ quân cự thủ không có, chúng chỉ thấy cứ đóng cổng không liền đổ xô vào để phá cổng, thời phỏng bọn 50 anh em chúng con chống lại được nổi chăng? Chi bằng ta cứ mở toang cổng ra, chúng thấy trên mặt thành không có quân phòng thủ, dưới cổng thành lại mở không đóng, tất chúng phải cho là ta dùng kế Thị nhược dĩ cường, tương thực tác giả đó180.
Chúng nghe xong, đều phục là phải, liền chia nhau đi mở toang cả bốn cổng thành, rồi về đứng cả xung quanh Lăng Chấn. bấy giờ Lăng Chấn mới ung dung cất tiếng nói:
- Bây giờ là cái lúc cuối cùng của thầy trò chúng ta cùng nhau họp mặt. Ta muốn đem cái tâm sự của ta để thuật cho các con nghe lại một lần: ta năm nay ngoài 30 tuổi, từ năm 16, 17 tuổi trở đi đã biết lấy cái nông nỗi nước mình phải phụ thuộc với nước Tàu là nhục. Bởi thế nên mới dốc chí luyện tập võ nghệ, xem học binh thư, để mong về sau rửa hổ nước, cứu nạn dân… may sao, gần đây lại gập có Vua Bà chúng ta dựng cờ khởi nghĩa, nên ta mới vội vàng truy tuỳ181 dưới trướng… Cứ kể cái chí khí, cái thao lược, cái can đảm anh hùng của Vua Bà chúng ta giờ, thật không kém gì Vua Trưng ngày xưa. Vua Bà vì tin chúng ta, nên mới ủy cho giữ những nơi trọng địa như thế này. Chẳng ngờ, gặp lúc Vua Bà viễn chinh, quân giặc kéo đến, anh Phan Thái Tâm vì thất cơ mà tuẫn nạn ở Đô Bàng, còn anh Trần Quý…
Lăng Chấn nói đến hai tiếng Trần Quý, thời nghiến răng trừng mắt, coi như khí căm giận đã nghẹn lên đến cổ… Mãi mãi rồi mới nói tiếp:
… Ta không biết là người hay là vật, mà lại đi đầu hàng quân giặc, để đến nỗi mất đồn An Phổ, là nơi căn bản từ lúc mới khởi quân! Bây giờ chỉ còn sót có một thành này, mà bọn quân ngu dốt, lại tin lời dụ dẫn của quân giặc mà trốn chạy hết, thầy trò ta dù có tài là thánh cũng không tài nào giữ được nữa. Thân ta dù chết, ta cũng không hối hận gì, chỉ có một điều là ba thành này mà mất tức là đã mất nơi căn bản, Vua Bà ta nay mai hoặc lỡ có khi nào thất thế, thời còn biết lui quân về đâu? Thế có khác gì ta đây tự làm tuyệt mất hậu lộ182 của Vua Bà. Vua Bà đáng lẽ không đến nỗi thua, vì ta đây mà thua… Cái tội của ta dù nhổ từng cái tóc cũng không kể sao cho hết.
Bọn quân sĩ nghe Lăng Chấn nói vậy thời đều bâng khuâng ngao ngán, thổn thức bồi hồi, không biết nói lại thế nào. Một lúc, bỗng Lăng Chấn đứng phắt dậy, cất tiếng lên nói:
- Thôi bây giờ các con hãy ở lại đây, để ta ra giết quân Ngô một mẻ, cho chúng biết tay, rồi ta có chết mới cam lòng…
Lăng Chấn nói dứt nhời, cả 50 tên quân đều nói:
- Chúng tôi xin theo chủ tướng chết cùng chết, quyết không ai ở lại.
Lăng Chấn thấy vậy, đành phải cho chúng đi theo, liền nhảy phắt lên ngựa, vùn vụt xông ra ngoài thành…
Nói về Mã Khải, Khu Báo, Quách Hùng, ba tướng đem quân đến vây đánh huyện thành Nông Cống, khi đã bổ vây xong, bỗng thấy các cổng thành đều mở toang, Quách Hùng toan kéo quân đánh thẳng vào, Mã Khải gạt đi rằng:
- Chết! Chết! Mạo hiểm thế! Thế nào được. Bây giờ tướng quân kéo quân vào, lỡ phục binh ở hai bên thành nó đổ ra, cổng thời nó đóng sập lại thời còn sống thế nào được chứ?
Quách Hùng lấy làm phải, liền cùng nhau truyền cho quân sĩ chỉ cứ reo hò và khiêu chiến chứ không ai dám bén mảng đến gần thành cả.
Mặt trời tà tà, quân đã ra chiều mỏi mệt, kẻ đứng người ngồi, hàng ngũ đều rối loạn. Mã Khải đương tuần tiễu ở cửa Đông, Quách Hùng thời đang trèo lên trên vọng viễn đài, Khu báo vì đêm hôm trước cảm sốt, nên ngày hôm ấy tuy ra nơi hàng trận mà tinh thần vẫn uể oải. Nhân thấy trong thành không ra đánh, liền xuống ngựa ngồi phệt xuống đất, bảo mấy tên quân lấy lá mộc che xung quanh cho đỡ nắng… Giữa lúc đó, bỗng nghe từ trong thành có tiếng reo hò xông ra, Khu Báo liền ngảnh đầu lại trông thấy một viên tướng tay cầm siêu đao, cưỡi trên con ngựa ô, vùn vụt từ trong thành xông ra, theo sau có một toán quân đều cầm đoản đao, khí thế rất hung mãnh. Khu Báo có ý ngạc nhiên, vì từ xưa chưa từng thấy toán quân nào xuất trận mà quân tướng ít ỏi đến thế bao giờ… nhưng vì thấy cái khí thế hung mãnh của viên tướng đi đầu, nên cũng không dám coi thường, liền vội vàng đứng dậy, gọi quân dắt ngựa. Vừa lúc rón rén toan nhẩy lên lưng ngựa, bỗng nghe thấy một tiếng quát vang như sấm:
- Ngô tướng! Mi đã biết mặt Vũ Lăng Chấn chưa?
Khu Báo nghe tiếng thét ấy, bất giác giật nảy mình lên, vội vàng quày đầu lại để trông, thời Lăng Chấn đã vụt tới trước mặt. Khu Báo chưa kịp trở tay thời một mũi siêu đao đã đưa ngay vào giữa ức Khu Báo chỉ kêu lên được một tiếng tức thời ngã gục xuống mà chết.
Sau khi Lăng Chấn đã giết chết Khu Báo, tức thời cử động siêu đao, vùn vụt xông vào giữa trận quân Ngô; toán quân thấy cái khí thế của Lăng Chấn hung mãnh quá, thời đều chạy đổ xô đi, kêu la rầm rĩ… Mã Khải, Quách Hùng nghe báo đều vội vàng quày lại. Mã Khải bắt gặp Lăng Chấn trước, liền khoa kích giao chiến, Quách Hùng lại sau, thấy hai tướng đánh nhau rất hăng, nhưng coi chừng quân Nam không có mấy, liền phất cờ truyền lệnh bổ vây, lại truyền quân cung thủ hễ quân Nam đi đến đâu thời bắn đến đấy… Sau khi truyền lệnh xong liền xông vào song chiến Lăng Chấn. Mã Khải đánh nhau với Lăng Chấn đã toan núng thế, bỗng được Quách Hùng trợ chiến thời khí thế lại thêm hăng. Hai bên lại cùng đánh nhau tới hơn 50 hiệp nữa, Lăng Chấn liệu thế không thể địch được, liền quày ngựa chạy. Mã Khải, Quách Hùng cứ để vậy cho chạy không đuổi, rồi lên trên cao để chỉ huy quân sĩ bắn tên.
Lăng Chấn phóng ngựa đi được một quãng độ tám, chín trăm thước, ngảnh lại trông quân mình, chỉ còn độ một nửa, liền dừng ngựa bảo chúng:
- Thôi các con đừng theo ta nữa! Hàng ngay đi, hàng ngay đi, kẻo không thể sống được đâu!
Lăng Chấn nói dứt nhời, cả toán quân đều kêu lên:
- Chết thì chết! Chúng tôi quyết không hàng!
Vừa lúc đó, thời một toán quân Ngô tới hơn 200, nghe hiệu chỉ huy áp tới, giương toàn nỏ cứng, nhằm thẳng vào Lăng Chấn mà bắn. Lăng Chấn vung thương quay tít để gạt tên, tên rơi xuống lỏa tỏa như mưa… Bỗng một mũi tên bắn trúng ngay vào mắt ngựa của Lăng Chấn, ngựa đau lồng lên, Lăng Chấn vội rún chân nhảy thót xuống đất. Rồi chân đi bộ, tay vung thương, đánh lộn vào trong quân Ngô, chỉ độ dập bã trầu, đã giết chết được tới bảy, tám tên. Tuy vậy quân Ngô vây bọc vẫn mỗi lúc một thêm đông, mà Lăng Chấn thời chân tay mỗi lúc một mỏi mệt dần, ngảnh lại trông quân mình, không còn sót một mống nào nữa, bất giác thở dài một tiếng ứa hai hàng nước mắt, ngửa mặt lên trời kêu lên một câu:
- Trăm lạy Vua Bà, không phải Vũ Lăng Chấn này không hết lòng báo chúa, nhưng sức kiệt mất rồi, xin Vua Bà cũng thấu tình cho!
Nói dứt nhời quay thương đâm cổ mà chết.
Vũ Lăng Chấn chết, quân Ngô vẫn chưa biết, nên chi chúng vẫn cứ vây bọc mãi, ước tới hơn một giờ sau, Mã Khải, Quách Hùng không thấy ở trong có người đánh nữa, liền sai quân đi lùng, một lát, có mấy tên quân khiêng xác Lăng Chấn đến nộp. Mã, Quách hai người trông thấy mặt Lăng Chấn, tuy là đã chết, mà sắc giận vẫn hầm hầm rất lấy làm cảm phục, bất giác buột miệng đồng thanh nói lên rằng:
- Người này mới thật là trung quân ái quốc, thật đáng là bực anh hùng. Không ngờ nơi rợ mọi mà lại có người như thế.
Nói rồi, truyền quân sĩ làm lễ mai táng rất là tử tế. Sau Mã Khải lại dựng bia thân đề mấy chữ vào giữa lòng bia rằng: “Giao Châu nghĩa sĩ Vũ Lăng Chấn chi mộ”
Sau khi Mã Khải, Quách Hùng đã thu phục được Nông Cống liền bàn nhau chia quân đóng giữ rồi tức nhật khởi binh kéo về Cửu Chân để trình mọi việc quân sự với Lục Dận. Khi tới nơi thời Lục Dận đã dẫn đại binh đến đóng ở Hồng Lĩnh. Hai tướng lại đến Hồng Lĩnh vào yết kiến Lục Dận. Lục Dận rất lấy làm khen ngợi, rồi bảo các tướng:
- Chắc thế nào chỉ mấy ngày nữa, Bà Vương sẽ kéo quân tới đây. Ta nghe nói người ấy vừa có cơ mưu, lại có vũ dũng, quyết không thể coi thường được. Vừa rồi y sở dĩ bỏ An Phổ, Nông Cống, Đô Bàng vội vã kéo đại binh sang Cư Phong, chỉ vì một là y nóng lòng cứu anh, không kịp nghĩ gần nghĩ xa; hai là y coi thường quan Mục trước, chắc không phải là tay đối đầu được với y. Đến giờ nếu cái tin nơi sào huyệt đã bị ta chiếm đoạt tất y phải liều chết mà đánh lại… Ta chắc trong hàng tướng tá của ta không có tay nào ngang sức với y. Vậy các ngươi phải tuân theo mệnh lệnh của ta lúc nào nên đánh lâu, lúc nào nên đánh chóng, lúc nào nên dụng đoản kích trường, lúc nào nên dùng trường kích đoản… Ta đã vẽ ra bản đồ, lập thành kế sách sẵn. Hễ ai trái lệnh, chiểu quân pháp ta quyết không dung.
Các tướng nghe lệnh đều dạ ran, rồi lui ra, ai ở đâu về đấy, chỉ chờ đợi ngày giờ để nghinh địch.
***
Nói về Vua Bà, vừa sắp sửa chỉnh bị binh mã để đi đánh Cửu Chân, bỗng có quân tế tác đến báo ba nơi căn bản đều đã bị mất, Phan Thái Tâm, Vũ Lăng Chấn tử nạn, Trần Quý đầu hàng,…
Đức bà nghe báo xong, giậm chân xuống đất, thở dài mà rằng:
- Chúng nó làm lỡ mất cả đại sự của ta rồi!
Nói rồi, truyền hội họp tất cả các tướng đến trung quân bàn việc tiến binh. Một lát, các tướng đã đều đến. Vua Bà cất tiếng nói:
- Hiện giờ Nông Cống, Đô Bàng, An Phổ đã đều mất về tay Lục Dận. Nơi căn bản của ta không còn. Liệu một thành huyện Cư Phong này, cũng không sao chống nổi với quân địch. Vậy giờ ta muốn đem đại quân thu phục lấy ba nơi căn bản kia đã. Rồi sẽ tiến lên đánh Cửu Chân sau, các ngươi nghĩ sao?
Các tướng đều vâng lời y nghị. Vua Bà lại gọi Lý Mão đến bảo:
- Ta vì nhà ngươi mà mới đem quân đến đây, nay nơi căn bản của ta đã mất, thế tất ta phải hồi quân thu phục. Nhà ngươi vốn là dân thổ chước ở vùng này, vậy ta cho đem quân bản bộ, đóng giữ huyện Cư Phong. Mỗi năm ngày một lần phái quân đem lương thực theo cho đại quân ta ăn dùng. Vì ta chắc quân ta trở về Đô Bàng, dọc đường còn phải chinh chiến nhiều, chưa hẳn một tháng có thể về tới nơi… Lại vì sự bận việc xung kích nên không thể đem kèm lương đi theo được. Việc ấy là một việc rất hệ trọng, bao nhiêu tính mệnh của quân ta, đều trông cả vào đấy, nhà ngươi phải hết sức giúp ta…
Lỹ Mão vâng lời.
Mờ sáng ngày hôm sau, Vua Bà truyền lệnh Triệu Quốc Thành làm tiên phong, đem 500 quân tiến đi trước, Vua Bà từ thống trung quân, Triệu Quốc Đạt đem quân bản bộ đi đoạn hậu.
Chiều tối ngày hôm ấy, trung quân đi tới địa hạt Phúc Mê, Vua Bà truyền hãy dừng quân hạ trại. Lệnh vừa truyền xong, bỗng thấy một tên quân tiền bộ tiên phong, phi ngựa trở lại trình rằng:
- Phía dưới Tùng Sơn có một dãy trại quân Ngô án ngữ. Vậy xin Vua Bà truyền cho cứ đánh thẳng vào trại quân Ngô lấy đường đi, hay là lùi quân, đi sang đường khác?...
Vua Bà nghĩ bụng: - Muốn đi đường khác, thời phải lui quân tới binh 30 dậm đường nữa. Chắc đâu toán quân Ngô ấy nó lại không đuổi theo. Nếu vậy thời hóa ra chưa đánh nhau mà hình như đã bại trận mất rồi!
Vì nghĩ vậy nên Vua Bà truyền lệnh cho toán quân tiên phong, cứ việc đánh ngay vào trại quân Ngô, rồi sẽ có trung quân tiếp ứng chứ không phải lùi đi lối khác…
Triệu Quốc Thành tiếp được lệnh ấy, thời ngày đã tối, nhưng vì nóng lòng muốn được thành công, nên sau khi cho quân sĩ ăn uống cơm tối xong vào khoảng hết canh một sang canh hai, Quốc Thành truyền lệnh cho quân sĩ: ngựa tháo nhạc, người ngậm tăm, kéo thẳng đến đánh úp trại quân Ngô. Khi còn cách độ 40 thước, Quốc Thành truyền quân sĩ, đánh trống, đốt đuốc, hò reo xông vào. Chẳng ngờ khi quân sĩ vừa mới sát gần tới nơi, một hồi lệnh ở trong trại nổi lên, tức thời nỏ bắn ra như mưa. Quốc Thành tự xông vào trước để thúc quân, nhưng vì tên bắn nhiều quá quân ta cứ lui ra lại vào, tới ba bốn lượt bị trúng tên mà chết tới lính một trăm, vẫn không thể sao sát gần được. Bất đắc dĩ Quốc Thành lại phải hô quân về bản trại. Lúc về đến trại đã hầu sang canh tư, quân sĩ vì đã đi mất suốt ngày, đến đêm lại phải kéo đi đánh, chắc nên ai nấy đều mệt lử cả đi, vừa cởi bỏ áo giáp ra đặt mình nằm xuống là ngủ thiếp ngay đi như chết. Quốc Thành cũng vì mỏi mệt quá, không kịp nghĩ chi đến việc canh phòng, cũng đặt mình nằm xuống ngủ ngay. Đến lúc vừa giao đầu canh năm, bỗng quân Ngô kéo đến ầm ầm như đê vỡ. Quốc Thành giật mình tỉnh dậy, thời đã thấy quân Ngô phá tan được cửa trại mà xông vào rồi. Dưới ánh đuốc như ban ngày, trông thấy quân mình, thảy đều đầu tóc rũ rượi, chạy trốn tán loạn… Quốc Thành không còn kịp tìm ngựa chỉ cầm chiếc hoạch kích đánh tháo lấy đường chạy. Trong khi còn lưởng vưởng ở trong trại, Quốc Thành thấy ở dưới chân mình, giày lên toàn những thây chết ngổn ngang… Phải hết sức đánh tới một nửa giờ, mới thoát ra ngoài vòng liền cắm đầu chạy miết một mạch ra bãi Lũng, rồi ngoảnh lại trông nơi trại cũ của mình, thấy ngọn lửa bốc lên ngùn ngụt… Bất giác thở dài một tiếng, ứa ra hai hàng nước mắt, lầm bẩm nói một mình:
- Ta làm tướng tiên phong, vừa mới giao chiến có một trận mà đã táng bại đến nhường này, thời còn mặt mũi nào mà trông thấy chị ta nữa!
Dứt nhời cầm kích đâm lên cổ toan tự tử… Giữa lúc đó, bỗng có một viên từ đằng xa chạy vụt đến, giật lấy hoạch kích của Quốc Thành mà nói to lên rằng:
- Ô! Kìa sao tướng quân lại nóng nảy thế? Thua, được là việc thường của nghề dùng quân. Có hề chi cái đó mà đã vội quyên sinh, chẳng hóa ra lại gây thêm nỗi thương tâm cho Vua Bà hay sao?...
Dứt tiếng nói, Quốc Thành sửng sốt quày lại, nhận ra là Trần Hiu, Quốc Thành vội hỏi:
- Kìa, ông Trần! Sao ông lại tới đây?
Trần Hiu nói:
- Vì lúc nửa đêm, Vua Bà vẳng nghe tiếng trống trận, đoán chắc là tướng quân đánh úp trại quân Ngô, sợ tướng quân thất bại, nên ngài vội sai tôi đem quân tiếp ứng. Ngờ đâu khi tôi đem quân tới nơi thời tướng quân đã thua chạy rồi. Tôi theo dõi, tìm mãi mới ra tới đây… Thôi, tướng quân nên nguôi lòng, quày lại, thu nhặt tàn binh, lập lại dinh trại, chờ có mệnh lệnh của Vua Bà đến sẽ tiến binh. Vua Bà dặn tôi bảo tướng quân: “Lục Dận là một viên tướng trí mưu, không như mọi tướng khác, ta phải dè dặt từng bước mới khỏi sa vào cạm bẫy của nó.”
Quốc Thành nghe nói, đành quày lại, cùng Trần Hiu lập lại dinh trại để chờ mệnh lệnh Vua Bà.
Nói về Vua Bà sau khi nghe tin Quốc Thành bị thất bại, liền bàn định với Triệu Quốc Đạt, chia quân ra làm hai đảng, Vua Bà tiến quân về phía bên hữu, Quốc Đạt tiến quân về phía bên tả, còn Quốc Thành và Trần Hiu thời tiếp ứng cả hai nơi.
Đúng giờ Thìn ngày hôm sau, thời cả hai tướng đều tiến quân. Ngày hôm ấy Vua Bà đầu đội khăn xanh, mình mặc áo giáp vàng, chân dận đôi dép ngà, ngồi trên lưng con voi trắng, coi nghi vệ rất là oai nghiêm. Vào khoảng cuối giờ Ngọ sang giờ Mùi thời quân ta đã sát tới trại Ngô. Vua Bà truyền lệnh đánh trống reo hò xông vào. Trong trại quân Ngô vẫn chỉ có một mực dùng tên nỏ bắn ra như mưa. Quân ta cứ chùn cả lại không sao tiến được. Vua Bà nổi nóng, truyền quân sĩ phải hết thảy lấy mộc mà che tên, rồi tự bỏ voi xông vào trước. Các tướng tá và quân sĩ thấy Vua Bà đã xông đi trước, thời dù chết cũng phải cố gắng liều vào theo. Chỉ độ dập bã trầu là quân ta đã phá tan được dẫy hàng lũy của quân Ngô, rồi tiến ập lại, thế mạnh như đê vỡ. Quân Ngô đến lúc đó, dù có nỏ cứng tên sắt cũng không còn làm gì được nữa, đành quăng nỏ mà ôm đầu chạy trốn tán loạn. Giữa lúc đó, thời toán quân của Triệu Quốc Đạt vì thấy quân của Vua Bà đã xông được vào trước, nên cũng phải cũng nhau liều chết xông vào, chỉ độ thoáng mắt là đã phá tan.
Nói về bọn tướng Ngô mà Lục Dận phái ra án ngữ ở đấy là Mao Tài, Trình Bân, Hạng Liệt, Lý Sung đều là những tay chiến tướng rất giỏi, vốn đã chắc dùng cái kế mai phục bằng kính nỗ có thể hãn ngữ được quân Nam, chẳng ngờ chỉ có một lát mà bao nhiêu doanh trại đều đã bị quân Nam phá tan, thời đều nổi giận đùng đùng. Tức thời cả bốn người đều nhảy phắt lên ngựa, xông đi tìm tướng Nam để cự chiến. Mao Tài, Trình Bân, hai tướng vừa đi được một quãng ngắn, thời đã gặp ngay Vua Bà, cưỡi voi xồng xộc đến, Mao Tài trông thấy quát to:
- Bớ nữ tặc! Ta khen mi cũng to gan thực! Giờ ta cho mi sẽ biết tay!
Dứt nhời, một người vung hoạch kích, một người khoa trường thương, đều nhằm thẳng vào Vua Bà mà đâm lại.
Vua Bà thấy hai tướng đã đến gần liền trừng mắt quát:
- Ngô tặc! Chớ có coi thường, hãy xem đao của mỗ đây…
Dứt nhời, tay trái cầm siêu đao gạt bỏ ngọn thương của Mao Tài, tay phải cầm lao nhắm Trình Bân mà lao xuống. Lúc đó Trình Bân trông thấy Vua Bà rút lao, đã để ý tránh nhưng không kịp, một mũi lao đã đâm phập ngay vào giữa vai. Trình Bân kêu rú lên một tiếng, ngã lộn nhào xuống ngựa. Bọn quân Ngô vừa toan xông lại cứu, thời nhanh như chớp, cái vòi voi của Vua Bà đã cuốn ngay lấy Trình Bân mà tung lên cao tới một trượng gieo xuống đất mà chết. Giữa lúc voi tung Trình Bân, thời Mao Tài dùng phi tiêu nhắm thẳng vào cổ Vua Bà mà ném. Vua Bà quát lên một tiếng:
- Ngô tặc! Mi lại dám dùng ám khí à?
Vừa dứt tiếng thời chiếc phi tiêu đã vùn vụt tới ngang mặt. Vua Bà nhanh tay bắt ngay được, tức thời dùng ngay phi tiêu đó nhằm thẳng vào đầu Mao Tài mà ném, Mao Tài thấy vậy vừa toan dùng hoạch kích để gạt bỏ phi tiêu, nhưng hoạch kích chưa kịp quay thời chiếc phi tiêu đã đâm thẳng vào mặt ngựa của Mao Tài. Ngựa bị phi tiêu nhảy lồng lên, vật lộn Mao Tài xuống đất. Giữa lúc Mao Tài từ trên lưng ngựa lộn xuống mình chưa sa xuống đến đất, thời lưỡi siêu đao của Vua Bà đã chém phập vào gáy Mao Tài, đầu đứt ra lăn như củ chuối. Sau khi đã giết chết Trình Bân và Mao Tài, Vua Bà vừa toan bổ voi xông thẳng về phía bên hữu nhác thấy bên trái có một tướng đầu tóc rũ rượi, phóng ngựa chạy rất gấp. Ở phía sau có hai viên tướng Ngô đang cùng ráng sức để đuổi. Vua Bà nhận rõ viên tướng chạy ấy là Quốc Đạt liền cất tiếng gọi to lên:
- Huynh trưởng! Đã có em đây không phải chạy nữa. Dứt nhời, giương cung nhằm thẳng viên tướng Ngô đi trước mà bắn.
Viên tướng đi trước ấy tức là Lý Sung còn viên tướng đi sau là Hạng Liệt. Chính đang lúc hai người còn trổ tài đuổi đánh Quốc Đạt, bỗng nghe tiếng Vua Bà quát thời đều giật nảy mình vội dừng ngựa lại. Lý Sung tinh mắt trông thấy Vua Bà giương cung thời vội vàng quát:
- Nữ tặc! Chớ có bắn tên, hãy xem thần kiếm của bản tướng đây!
Dứt nhời, vừa múa kiếm vừa xông lại sát tận bên voi. Cả Hạng Liệt cũng đồng thời áp tới. Rồi hai người cùng hợp sức lại để đánh nhau với Vua Bà. Vua Bà một mình cự chiến với hai viên tướng tới hơn bốn, năm mươi hợp, sức khỏe càng ngày càng hăng. Lý, Hạng hai tướng thấy mồ hôi đã ướt đầm cả áo, cùng đều rối loạn. Hai tướng biết thế không thể địch được, liền cùng nhau cắm đầu tháo chạy. Vua Bà vì thấy mặt trời đã gác núi, liền truyền lệnh đánh chiêng thu quân không đuổi nữa, rồi hạ trại ngay ở giữa chỗ trại quân Ngô đóng trước.
Sẩm tối ngày hôm ấy, Vua Bà bỗng gọi các tướng vào trung quân để truyền lệnh. Trước hết sai Triệu Quốc Thành đem 100 quân ra phục ở phía bên tả trại, Trần Hiu đem 100 quân ra phục ở phía bên hữu trại, rồi tự mình cùng Triệu Quốc Đạt, tự thống đại binh ra phục ở phía sau trại. Truyền lệnh xong, Vua Bà lại dặn: hễ thấy ở đại trại lửa bốc lên và tiếng reo hò, thời tức là quân Ngô đến cướp trại đó. Quân phục ở các nơi phải nhất tề đổ về giáp công thời thể nào cùng được toàn thắng.
Sau khi Quốc Thành, Trần Hiu kéo quân đi khỏi, Triệu Quốc Đạt hỏi nhỏ Vua Bà:
- Vì cớ chi mà hiền muội biết là có quân Ngô đến cướp trại?
Vua Bà nói:
- Cứ theo thói thường của người đời, thời cái xu hướng của người trên thế nào, người dưới cũng hay bắt chước mà theo một cái xu hướng ấy. Hiện giờ tên đứng đầu quân Ngô là Lục Dận vốn la một viên tướng mưu trí, đối với việc chinh chiến, phần nhiều chỉ dùng mưu chắc các bọn tùy tướng của nó cũng bắt chước mà theo một giuộc như thế. Chúng thấy trận đánh của ta lúc ban trưa, ta phải dùng cách thí thân mới phá tan được doanh lũy của nó. Chắc nó phải đoán là quân tướng ta đã mệt nhoài cả ra, tối đến thời ngủ thiếp đi còn nghĩ gì đến việc phòng bị nữa. Bởi thế nên chắc thế nào đêm nay nó cũng đem quân đến cướp trại.
Quốc Đạt nghe Vua Bà nói xong rất lấy làm phải rồi cáo từ lui ra lập tức đem quân ra phía sau trại để mai phục.
Vào khoảng nửa đêm hôm ấy, quả nhiên nghe thấy ở trong đại trại đã có tiếng hò reo và đuốc lửa bật sáng lên như sao sa. Tất cả hai toán quân tả hữu và toán quân phục ở đằng sau trại đều đánh ập cả lại. Một trận đánh ấy quân Ngô mười phần chết mất đến sáu, bảy phần. Lý Sung bị tên bắn chết ở trong loạn quân, còn Hạng Liệt cũng bị Triệu Quốc Thành chém chết. Thế là chỉ đánh có hai trận mà cả bốn viên tướng Ngô đều bị chết. Ngày hôm sau Vua Bà vừa toan truyền lệnh lại cất quân kéo đi, thời Trương Tảo vào trình rằng:
- Xin Đức Vua hãy lui lại cho vài ngày để chờ lương ở Cư Phong đưa đến đã, kẻo giờ ở trong quân chỉ còn có hơn một ngày lương, nếu lỡ đi xa, lương đến không kịp thì rầy183.
Vua Bà y lời liền truyền lệnh hãy tạm đóng quân tại đó. Một mặt sai mấy tên kỵ binh về Cư Phong giục Lý Mão đem lương.
Vua Bà đóng quân ở đấy hai ngày nữa, thời mới thấy Lý Mão phái đem được hơn 50 gánh lương đến, Vua Bà truyền đòi viên quản coi việc dẫn lương ấy vào hỏi:
- Sao lại đem được có bấy nhiêu lương thời phỏng dùng được mấy ngày?
Viên quản coi lương nói:
- Lý chủ tướng tôi có dặn tâu với Đức Vua rằng: vì mấy ngày hôm nay tiết trời u ám, thóc thu được phần nhiều là ẩm ướt nên xay giã không kịp, xin Đức Vua hoãn cho hai ngày nữa thời mới có thể đem đến đủ được.
Vua Bà nghe nói thời có ý buồn rầu, đã toan phái người đi tống lương ở các trang trại xung quanh. Nhưng lại sợ nếu làm thế thời hại dân. Vả khắp vùng quanh đấy, bấy lâu đã bị tàn bại về quân Ngô chắc cũng chẳng còn gì nữa… Tuy vậy, vì việc tiến quân không thể nào trì hoãn nên đến sáng ngày hôm sau Vua Bà cũng cứ truyền lệnh tiến quân…
Nói về bên quân Ngô, bại binh chạy về đến đại trại ở Hồng Lĩnh. Đem hết tình hình thất bại trình bày với Lục Dận. Lục Dận thất kinh mà rằng:
- Chết thật! Ta không ngờ tên nữ tặc ấy mà nó lại dũng mãnh đến thế!
Lục Dận vừa nói dứt nhời, Mã Khải, Quách Hùng, Đỗ Kiệt, cả ba người đều đứng lên nói rằng:
- Xin chủ tướng đừng vội nói thế mà ngã lòng quân của ta. Nếu mai, tặc quân có đến đây, anh em chúng tôi xin nhất tề ra trận, để đánh cho bằng được toàn thắng mới cam tâm…
Lục Dận nghe ba người nói xong, trầm ngâm một lát rồi ra vẻ trịnh trọng cất tiếng nói:
- Ba ngươi nếu muốn đánh nhau với nó, thiết tưởng đừng nên đồng thời đến đánh một lúc, phải nên luân lưu mà đánh, chờ khi nào nó thật mỏi rồi, ta sẽ chia làm tả hữu hai bên đánh ập lại thời mới mong toàn thắng được.
Ba tướng được Lục Dận cho ra đánh thời đều hớn hở vui mừng rồi lui ra để chờ bao giờ quân Nam đến thời xuất trận.
Nói về Vua Bà tiến quân, đi mất hơn một ngày mới gần tới Hồng Lĩnh.
Thời thấy quân Ngô đã đóng trại san sát cả ở hai bên sườn núi, Vua Bà liền truyền lệnh hạ trại, rồi tự mình đem mấy tên kiện tốt thẳng tiến lên trên một trái đồi cao, ngắm xem cách hạ trại của quân Ngô… Chính đương lúc ngắm nghía, thời vụt thấy một con ngựa từ sườn đồi lên, Vua Bà nhận ra người ấy là Triệu Quốc Thành. Còn cách xa ước chừng 200 thước, Vua Bà đã vẫy tay gọi:
- Em, em đi đâu mà vội thế?
Không kịp trả lời, Triệu Quốc Thành phới ngựa tới gần sát Vua Bà, xuống ngựa khoanh tay nói:
- Thưa chị, vì em thấy chị đi lên đây không có ai là đại tướng đi theo, em sợ lỡ có xẩy ra việc gì bất trắc.
Vua Bà mỉm cười mà rằng:
- Sao độ rầy em cẩn thận thế? Ừ, nhưng cũng may, em đã lên đây, chị sẽ chỉ bảo cái cách hạ trại của quân Ngô cho em xem…
Nói dứt nhời, Vua Bà dắt Quốc Thành lại bên cạnh, rồi vừa chỉ trỏ vào trại quân Ngô vừa nói:
- Kìa, em trông đông, tây, nam, bắc bốn phương đều có hạ trại, ở giữa thời đóng một đại doanh; tiếp luôn một khu này ước chừng trong vòng năm dặm, mà nó chia ra hạ trại một cách đều giống nhau như thế cả…
Nói đến đấy, Vua Bà chỉ vào một ngọn cờ đại ở giữa trại mà bảo Quốc Thành:
- Kìa, em trông ngọn cờ kia, rõ ràng là cờ của chủ tướng nó chứ? Nhưng, em phải biết, thằng Lục Dận nói không đóng ở đấy đâu… Ở đây xa, không trông thấy được rõ những ngọn cờ ở đàng kia, nhưng chắc ở trại nào cũng có một lá cờ chữ “Nguyên súy” cả… Em cứ trông đó thời biết là cách hạ trại của Lục Dận theo lối Ngũ hoa trận ở trong binh pháp, ấy là cách hạ trại mà nó còn cẩn thận như thế, thời đủ biết đến mức lâm trận nó còn cẩn thận đến nhường nào…
Vua Bà nói đến đấy, thời Quốc Thành bất giác thở dài lên một tiếng… Vua Bà mỉm cười ngoảnh lại hỏi Quốc Thành:
- Ô hay! Em sợ nó à?
Quốc Thành nói:
- Thưa chị, em không sợ nó, nhưng em trộm nghĩ thằng Lục Dận này đối với ta thật là một tay kình địch.
Vua Bà gật đầu nói:
- Ừ, em nói cũng phải, nhưng cứ nghĩ như sức chị, thời dù đến mười cái Ngũ hoa trận thế chị phá cũng tan, nhưng không biết lòng trời có tựa chị em mình không? Em nhỉ?
Vua Bà nói đến đấy thời bất giác cũng xúc động đến cảm tình riêng của mình, nét mặt cũng rầu rầu kém tươi. Chính đương lúc bồi hồi nghĩ ngợi, bỗng có một toán quân tới hơn 100 người vùn vụt từ dưới chân đồi đi lên, Vua Bà nhận ra là Triệu Quốc Đạt, tức thời Vua Bà vừa cười vừa nói:
- Vì có mình tôi lên đây, mà đến nỗi làm phiền cả anh lẫn em…
Triệu Quốc Đạt ngồi trên lưng ngựa ung dung nói:
- Ngày đã chiều lắm rồi, xin hiền muội trở về dinh thôi…
Dứt nhời, Vua Bà không hề từ chối, liền cùng Quốc Đạt, Quốc Thành trở về dinh.
Mờ sáng ngày hôm sau, Vua Bà truyền lệnh, chia quân ra làm năm đạo, nhất tề tiến đánh cả năm trại của quân Ngô. Vua Bà tự thống trung quân, đánh thẳng vào trại giữa. Các tướng nghe lệnh đạo nào, chia đi đạo ấy.
Nói về bên quân Ngô, Lục Dận thấy cái thế lực của Vua Bà rất mạnh, nên trước kia đã toan cho Mã Khải, Quách Hùng, Đỗ Kiệt lũ lượt nhau đánh với Vua Bà, rồi đem quân ra bao vi. Nhưng sau lại nghĩ thêm ra một cách bày thành Ngũ hoa trận để đối địch, đó tức là một cái thâm tâm của Lục Dậu. Vì Lục Dận là một người rất sính cơ mưu, chỉ muốn đánh một trận ấy bắt sống được Vua Bà mới cam tâm. Nên chi mới vừa lập ra Ngũ hoa trại, lại dùng cả cái kế hoạch của bọn Đỗ Kiệt trước.
Mờ sáng ngày hôm sau, tức là trong khi quân Ngô đã xếp đặt sẵn, thời vừa lúc Vua Bà đốc thúc năm đạo quân sang đánh. Thoạt tiên, Đỗ Kiệt xông ra đốn đánh nhau với Vua Bà. Chẳng ngờ không gặp Vua Bà lại gặp ngay Triệu Quốc Thành. Đỗ Kiệt đánh nhau với Triệu Quốc Thành mới được hơn mười hợp, bỗng một mũi tên từ đàng xa bắn thẳng vào cánh vai Đỗ Kiệt. Vì bị tên, Kiệt suýt nữa thời bỏ rơi mất hoạch kích, phải vội vàng quày ngựa tháo chạy… Mã Khải thấy Đỗ Kiệt bị thương, vội vung thương xông ra tiếp chiến với Quốc Thành, chưa đánh nhau được dăm hợp, thời Triệu Quốc Đạt xồng xộc tới nơi, nói to lên:
- Em Thành! Để tặc tướng đấy cho ta. Em khá mau mau đi tiếp ứng Vua Bà…
Dứt tiếng, Quốc Thành gạt ngang ngọn kích, nhằm thẳng phía trận trung ương vụt đi. Mã Khải thấy tình hình như vậy, biết là cái kế hoạch của mình không thành, lại sợ bọn Lưu Uyên, Đằng Giao giữ ở trận trung ương không vững, toan quay lại báo tin ấy với Lục Dận… Nhưng bị Quốc Đạt đánh cản lại, không thể nào thoát thân đi được. Nói cho đúng thời thương pháp của Mã Khải gấp hơn Quốc Đạt nhiều, nhưng vì lúc ấy, tự biết thế mình đã núng, nên thương pháp cũng thành rối loạn, chỉ mới được hơn mười hợp, thời đã không địch được, đành phải gạt thương tháo chạy…
Quốc Đạt thấy Mã Khải chạy thời vung thương vẫy ra đằng sau, toàn quân đều đuổi áp sang nhanh như nước chảy…
Giữa lúc đó, toán quân của Vua Bà đã đánh tới trại trung ương, Lưu Uyên, Đằng Giao vội vàng ra tiếp chiến. Chỉ độ dập bã trầu, Vua Bà đã dùng lao đâm chết Lưu Uyên, Đằng Giao luống cuống trốn chạy. Vua Bà bắn luôn một phát tên trúng vào giữa gáy… Quân Ngô thấy tướng đã chết thời đều ôm đầu trốn chạy tán loạn.
Quân ta thừa thắng chém giết như bổ dưa chẻ nứa… Vua Bà ngồi trên lưng voi, tay cầm cờ lệnh, phất ngang phẩy dọc, quân ta cứ theo lệnh mà ùa sang. Bọn Trương Tảo, Trần Hiu, Phi Quỳ, Uông Lân, Hoàng Lan, Lê Dương, người đao, kẻ kiếm, xông xáo tung hoành như một đàn hổ dữ nhảy vào giữa đàn dê. Chỉ có từ sáng đến trưa, cả năm nơi doanh trại đóng thành thế trận Ngũ hoa của Lục Dận đã tan tành như hoa trôi bèo dạt…
Lục Dận ở trên đỉnh núi Hồng Lĩnh trông xuống thấy quân ta dũng mãnh như vậy, bất giác buột miệng nói:
- Chà giỏi! Chà giỏi! Đàn bà mà đến thế, thật bên Trung Quốc ta từ xưa cũng chưa từng có, không ngờ ở nơi rợ mọi mà lại nảy nòi ra được người như thế.
Nói rồi, tự thấy tinh thần uể oải, ruột gan nóng nảy, lầm bẩm nói một mình: - Có lẽ cái oai danh của ta bị trụy liệt về người con gái Giao Châu này đây!
Tối hôm ấy, Lục Dận cứ trằn trọc suốt đêm, không sao chợp mắt được.
Vào khoảng gần gà gáy, rảo bước ra ngoài trướng phòng, rồi một mình lủi thủi đi vòng quanh các trại. Đi đến một nơi, nghe có mấy tên quân đang thì thào nói chuyện, liền lắng tai nghe, nghe rõ một đứa nói:
- Tôi không ngờ chỉ đánh nhau có vài trận mà quân ta chết mất nhiều quá.
Tên khác nói:
- Cứ như ý tôi thời bọn ta nên liệu tìm đường mà trốn về nước quách đi là hơn. Chứ còn ở rốn lại ngày nào là chết ngày ấy. Chả đánh thế nào được với họ đâu…
Vì nó giỏi lắm kia...
Tên nữa nói:
- Ừ, mà nó nói giỏi quá thật! Chẳng biết chủ tướng ta có tìm đường mà tháo chạy, không thời chết hết!...
Một tên nữa nói:
- Nếu vài hôm nữa mà chủ tướng không trốn thời chúng ta cũng trốn, chẳng tội gì ở lại để chịu chết…
Chúng nói đến đấy thời tiếng nhỏ dần đi, nghe không rõ nữa. Lục Dận nghe vậy, thời càng thêm lo lên bội phần, liền lại lủi thủi quay gót về trướng, ngồi bên cạnh bàn, chống tay vào cằm để nghĩ… Bỗng nghĩ ra được một kế, bất giác vẻ mặt hớn hở, liền truyền lệnh đòi mấy viên mặc khách vào để bàn. Sau khi Lục Dận đã cùng với mấy viên mặc khách bàn luận kỹ càng, tức thời một mặt truyền treo “Miễn chiến bài” ở khắp các trại, một mặt ủy người đi thi hành mật kế…
Nói về Vua Bà đánh một trận ngày hôm ấy, giết được quân Ngô có tới hàng vạn, bắt được áo giáp và khí giới không biết bao nhiêu mà kể. Sau khi đã đánh chiêng thu quân, Vua Bà truyền lệnh hạ trại ngay ở áp núi Hồng Lĩnh, cách trại quân Ngô chỉ độ nửa dậm, ở trại bên này, có thể gọi to một tiếng, trại bên kia cũng nghe thấy tiếng. Sáng hôm sau, vừa toan cất quân ra khiêu chiến, bỗng có tên quân vào báo rằng:
- Khắp các trại quân Ngô, trại nào cũng treo “Miễn chiến bài”.
Vua Bà nghe xong, chưa nói gì, Triệu Quốc Thành đã phì cười mà rằng:
- Ừ thế chứ! Xem phen này quân Ngô chúng nó có mất mật không?
Vua Bà lắc đầu mà rằng:
- Em đừng vội mừng. Ta chắc Lục Dận nó lại dùng cách hoãn binh để bày mưu kế gì đấy thôi… Tuy vậy, nó đã muốn miễn chiến, thời ta cũng miễn chiến mấy hôm xem sao?
Vừa nói đến đấy, bỗng thấy viên quan coi lương vào tâu: gần hết lương…
Vua Bà liền sai mấy tên kỵ binh đi về huyện dụ Lý Mão tải lương.
Cách đó hai ngày, chính đang lúc trong quân nao nao184 về lương, bỗng thấy mấy tên quân sai đi đốc lương mấy hôm trước hất hơ hất hải về báo rằng:
- Lục Dận sai người đến dụ Lý Mão đầu hàng, hiện ở Cư Phong đã cắm dát dạt toàn kỳ sĩ của quân Ngô. Chúng tôi đến nơi, suýt nữa bị giết chết… phải nhanh chân mới trốn thoát… Vua Bà nghe xong tái người đi thở dài mà rằng:
- Ta đã biết mà. Quân Ngô nó sở dĩ treo miễn chiến bài là cốt để thi hành mật kế đấy thôi, chứ có phải nó sợ hãi thật đâu!
Quốc Thành bấy giờ mặt đỏ bừng bừng, day tay mắm miệng cất tiếng lên nói:
- Xin chị cho em đem quân bản bộ quày về Cư Phong, giết chết bỏ thằng giặc phản chúa ấy đi.
Vua Bà lắc đầu nói:
- Vô ích! Vả nếu mình dẫn quân đi, Lục Dận nó lại dại gì mà không mai phục trước để yêu kích185 hay sao?...
Nó rồi, Vua Bà cứ ngồi lặng im trầm ngâm suy nghĩ: lương thực là tình mệnh của ba quân. Lương thực mà hết thời dù dũng mãnh cũng bằng thừa. Vậy ta biết lấy vào đâu cho được lương thực cho quân ăn bây giờ? Càng nghĩ càng thấy khó, càng thấy khó càng lo. Bỗng viên quan coi lương vào tâu: “Lương thực chỉ còn đủ ăn bữa tối nay…” Vua Bà gật đầu cho lui ra. Bấy giờ tất cả bọn Quốc Đạt, Quốc Thành, Trần Hiu… đều tỏ ra vẻ lo lắng, nhưng ai nấy cũng đều vô kế khả thi. Cái tiếng “hết lương” bấy giờ làm náo động cả ba quân. Chỗ nào cũng có tiếng rì rầm bàn tán… Bỗng có một tin đồn từ bên trại quân Ngô truyền sang: “Lục Dận đã cho người đi điều tra quê quán các tên quân đi theo Vua Bà, rồi phái quân đi đến từng nơi để đào mả tổ tiên những tên quân khởi loạn ấy…” Tiếng đồn ấy do một người truyền sang mười, do mười truyền sang trăm. Không bao lâu mà cả toàn quân đều biết. Rồi không ai bảo ai, ai cũng lấy mồ mả tổ tiên làm trọng, đều ngấm ngầm cuốn xéo chạy trốn. Chỉ có một đêm mà số quân của Vua Bà đã sút xuống mất quá một nửa. Biết tin ấy, Vua Bà bỗng dập tay xuống bàn kêu lên rằng:
- Chà! Thằng Lúc Dận này độc ác thật! Độc ác thật!...
Tiếng kêu ấy vang động cả ra bên ngoài, các tướng tá đều chạy xô cả vào, Vua Bà gọi Quốc Thành, Quốc Đạt lại gần bảo rằng:
- Quân ta bấy lâu tuy vẫn được, mà cái cơ thất bại đến nơi rồi! Huynh trưởng với hiền đệ liệu tìm lấy cách mà đào sinh186, còn như tôi thời tấm thân này đã phó thác với non sông, đành cùng với non sông cùng tuẫn táng, quyết không còn chịu sống giằng dai làm gì nữa đâu!
Vua Bà nói đến đấy, thời nét mặt bỗng đỏ bừng lên, hai mắt phượng long lanh như muốn nảy lửa. Quốc Đạt vừa toan nói lại, thời ngoài cửa trại đã nghe tiếng trống trận vang lừng, quân Ngô kéo đến đông như kiến cỏ… Vua Bà đứng phắt ngay dậy, tay cầm bảo kiếm, tay xách điêu cung, rảo bước ra sân, nhảy phắt lên lưng voi, vừa cất tiếng nói:
- Thôi lúc này là lúc sống chết giao đầu, xin ai nấy có thân thời liệu đừng theo tôi nữa!...
Dứt nhời thúc voi xông ra trước trại, nhằm thẳng đám quân Ngô mà tràn sang. Quân Ngô thấy khí thế của Vua Bà hăng hái quá, cứ phải giãn cả ra, không ai dám đối địch. Lục Dận truyền lệnh bắc loa gọi quân Nam: “Hễ ai hàng thời được cấp cho lương thực, cho về quê quán; ai còn ở lại, tức thời phải đào mồ mả tổ tiên đổ bỏ xuống sông…”
Tiếng loa gọi vang rầm cả lên như sấm động. Quốc Thành, Quốc Đạt bấy giờ vẫn phóng ngựa theo riết phía sau Vua Bà. Bỗng đằng trước mặt có hai viên tướng Ngô chặn đường đón đánh. Vua Bà nhận ra là Quách Hùng, Mã Khải, tức thời nóng tiết quát lên:
- Ngô tặc! Mi muốn dùng độc kế, hãy xem lao của ta đây!...
Dứt nhời, vùn vụt ném luôn sáu, bảy cái lao. Mã, Quách cũng đã nhanh tay gạt luôn được hai, ba cái; sau vì cuống quá không kịp nên Mã Khải bị ngay một lao trúng suốt ngực, chết ngay lập tức…
Quách Hùng bị một lao trúng vào đầu ngựa, ngã lộn xuống đất, quân sĩ xô lại cứu, nhưng bị Quốc Thành nhảy xổ lại chém đứt đầu…
Vừa lúc đó, nghe có tên quân kêu:
- Tướng quân Trương Tảo bị tên độc bắn chết rồi!...
Vua Bà ngồi trên lưng voi, trông ra xung quanh quân Ngô vây đặc cả như hàng rào sắt. Ngửa trông lên dãy Mao Sơn, thấy Lục Dận đang đứng trên đỉnh núi, cầm cờ chỉ huy quân sĩ… Máu nóng nổi lên, Vua Bà không hề trù trừ187 thúc voi xông thẳng lên núi.
Nói về Lục Dận đương lúc chỉ huy quân sĩ, bỗng thấy Vua Bà cưỡi voi vùn vụt xông lên, thời bủn rủn cả người, vừa toan tìm đường trốn chạy, thời vụt một mũi tên bắn trúng ngay vào cánh tay… Lục Dận vừa nghiêng mình ngã xuống, thời voi của Vua Bà đã áp tới, Vua Bà vừa cất siêu đao toan chém, thời đến hơn mười viên tướng Ngô đều xông cả ra đánh chẹn188, cứu thoát Lục Dận.
Vua Bà căm tức, múa tít siêu đao; đâm chém một hồi; lại chết bảy, tám viên tướng Ngô nữa…
Chính đang lúc chém giết túi bụi, bỗng một hồi loa đồng thét vang, tên nỏ từ phía dưới núi bắn lên như mưa… Bất đắc dĩ Vua Bà phải thúc voi trở xuống. Khi xuống đến chân núi, ngoảnh lại trông quân theo sau chỉ còn không được 100, hỏi đến các tướng, thời Lê Dương, Hoàng Lan, đều đã tử trận, còn Trần Hiu, Uông Lân thời không biết thất lạc ở đâu. Quốc Đạt cũng bị tên, mấy tên tâm phúc cõng đi trốn, không biết là đi về nẻo nào… Trông về phía trước, thấy Quốc Thành đang một mình đánh nhau với bốn, năm viên tướng Ngô.
Vua Bà liền thúc voi xông lại trợ chiến. Còn cách ước hơn 20 thước, đã thấy Quốc Thành bị tên ngầm bắn trúng giữa cổ, lăn xuống ngựa mà chết. Vì thương em quá, Vua Bà không thể cầm lòng, kêu lên mấy tiếng:
- Trời ơi! Em tôi chết rồi! Em tôi chết rồi!...
Dứt tiếng kêu, vụt lại chỗ Quốc Thành chết, lại giết chết ba viên tướng Ngô. Ngảnh lại đằng sau, quân Ngô đuổi theo ầm ầm như đê vỡ. Vì không muốn chết về tay quân Ngô, nên Ngài liền thúc voi nhằm thẳng về vùng Nông Cống mà chạy…
Tối hôm ấy, Vua Bà về tới xã Bồ Điền, tiến thẳng lên một tòa miếu cổ trên đỉnh ngọn Phương Sơn. Rồi đến đêm khuya, Ngài “chết theo nước”, năm ấy Ngài mới 23 tuổi…
Thưa các ngài, sử tích Vua Bà khởi nghĩa, ký giả thuật đến đây đã vừa hết. vậy ký giả xin nhắc lại để quốc dân ta cùng ghi nhớ:
“Vua Bà chính tên là Triệu Thị Trinh, sử Tàu họ xưng là Triệu Ẩu. Bà sinh ra ở huyện Nông Cống thuộc tỉnh Thanh Hóa bây giờ. Hiện ở xã Phú Điền189 thuộc Thanh Hóa còn có đền thờ. Vua Lý Nam Đế đã từng truy tôn bà là: Bậc chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân. Ngài là một bực nữ anh hùng sẵn lòng hi sinh vì nước, ngang sánh với Vua Trưng ở trong lịch sử nước ta. Đến ngày nay mà non sông ta còn, nòi giống ta còn, chúng ta còn phải ghi nhớ đến ơn đức Vua Trưng tức là cũng phải ghi nhớ đến ơn Đức Vua Bà. Đồng nhân ngoài Bắc, Phú Điền trong Thanh, nghìn năm hương khói, muôn kiếp anh linh. Nén hương xin đạt tấc thành, quốc dân ai hỡi đồng tình ấy chăng?”
|
|
|
 |
|
|
 |
14.09.2018, 14:10 |
|
V.I.P
|
|
Ngày tham gia: 02.05.2014, 01:36 Tuổi: 35 Bài viết: 35935 Được thanks: 6059 lần Điểm: 9.62
|
|
 Re: [Xuất bản - Lịch sử] Vua Bà Triệu Ẩu - Nguyễn Tử Siêu - Điểm: 10
CHÚ THÍCH
1. Binh khí xưa, mũi dài, cán nhọn, dùng để đâm.
2. Một loại vũ khí trong thập bát ban võ nghệ. Giản theo như gốc tích ban đầu là một cây roi bằng tre hoặc cành gỗ, có chiều dài khoảng 60–70 cm. Về sau thì người ta còn dùng giản làm bằng kim loại.
Bản gốc dùng ngôn ngữ biểu đạt phần nhiều khác với văn phạm hiện nay, người biên tập mạn phép thống nhất từ ngữ cho gần gũi với bạn đọc hiện nay. Rất mong nhận được ý kiến tích cực của bạn đọc gần xa.
Phần lớn chú thích trong sách này là của người biên tập, ngoại trừ một vài chú thích có dấu (*) là của sách gốc.
3. Búa, rìu to dùng để phá núi hoặc sử dụng như một loại binh khí cổ.
4. Dứt lời.
5. Cú vọ.
6. Xào xạc.
7. Lá cọ.
8. Người đứng đầu vùng dân tộc Mường thời trước.
9. Quay, xoay
10. Suy yếu trước tác động bên ngoài.
11. (từ cũ) người làm ruộng thuê.
12. Dao quắm hình lưỡi liềm, lắp vào cán dài, dùng để cắt những vật trên cao hoặc chữa cháy.
13. Đồ dùng kim loại, nhọn đầu, xiên vào lòng vật gì để thăm dò.
14. Vật có đầu ngọn hình cung phía trên bằng sắt hoặc tre, cắm vào một tấm gỗ để đánh bẫy.
15. Rên rẩm.
16. Nhà thờ, bái đường.
17. Dồn vào thế bắt buộc, ép buộc.
18. Cách nhau.
19. Chồm dậy trên hai chân với một sức hăng đột ngột do quá hoảng sợ.
20. Gặp, đối diện.
21. Vũ khí cổ, cán dài, đầu nhọn và cong như con rắn.
22. Lanh lẹ.
23 Mỏi mệt.
24. Độc giả, bạn đọc.
25. Có tài liệu chép bà sinh tại miền núi Quân Yên (hay Quan Yên), quận Cửu Chân (nay thuộc làng Quan Yên hay còn gọi là Yên Thôn, xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa).
26. Lịch sử vua Trưng ở truyện Hai bà đánh giặc. (chú thích gốc)
27. Bản gốc chép là “Sơn Tây”, ở đây có một sự nhầm lẫn, vùng nước Lỗ khi xưa nay thuộc tỉnh Sơn Đông Trung Quốc.
28. Nay là huyện Thương Ngô tỉnh Quảng Tây Trung Quốc.
29. Có tài liệu chép là Vu Dương.
30. (từ cũ) Tài giỏi hơn người.
31. Trằn trọc.
32. Phòng bên cạnh.
33. Nến, sáp nến.
34. Cất lên tiếng nhạc.
35. Lớn.
36. Lễ hai vợ chồng uống chung một ly rượu trong đêm tân hôn, theo phong tục thời trước.
37. Loài cá mực, trong có thứ nước đen, dùng thứ ấy viết thành chữ, chỉ để lâu thời phai hết – cổ nhân gọi là “Ô tặc mặc” . (*)
38. Chạm đến, cảm động đến.
39. Câu này vốn ở trong Kinh Thi, nghĩa là:
Lòng tôi chẳng phải chiếu, cuốn lại được nào?
Lòng tôi chẳng phải đá, chuyển đi được nào? (*)
40. Cái đanh, cái đinh.
41. Giọt nước của đồng hồ thời xưa.
42. Đời Xuân Thu, Sở Tương vương đến núi Vu sơn du ngoạn. Một hôm nằm mơ gặp một thiếu nữ tuyệt sắc, rồi cùng chung chăn gối. Sau khi cùng giai nhân thoả tình ân ái, nhà vua hỏi thì nàng ấy thưa rằng: - Thiếp là thần nữ núi Vu Sơn, qua chơi đất Cao Ðường, vốn cùng nhà vua có tiền duyên, nay được gặp gỡ thật thoả lòng mong ước. Thiếp có nhiệm vụ buổi mai làm mây, chiều làm mưa ở Dương Ðài. Nói xong đoạn biến mất.
43. Ngoảnh lại.
44. Rốt cuộc.
45. Tên đầy đủ là Sở Văn Vương, vua thứ 21 nước Sở, chư hầu của nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
46. Ngây ngất.
47. Âm khác của an ủi.
48. Quan làm việc dưới quyền một quan lớn thời phong kiến.
49. Tên khác của chim hồng hoàng.
50. Biểu thị sự quý trọng.
51. Hầu hạ và ngủ cùng.
52. Kiệt hiệt, tài giỏi hơn người.
53. Công lao.
54. Giám sát, chỉ huy.
55. Đánh đuổi, xua đuổi.
56. Tên tự của Tào Tháo.
57. Đề phòng, ngăn chặn sự tranh giành.
58. Hay Tào A Man, tên hồi nhỏ của Tào Tháo.
59. Bản đồ một vùng, một nước.
60. Âm khác của soái, tướng chỉ huy quân đội thời phong kiến.
61. (hay xảy) chợt, bỗng.
62. Bằng lòng như thế.
63. Có quan hệ mật thiết.
64. Giả sử như.
65. Đổi lại.
66. Một trong những kế trong Tam thập lục kế, được hiểu nôm na là ra tay trước để chiếm ưu thế, để đoạt lợi, để giành lấy chiến thắng trước khi đối phương kịp hành động.
67. Đặt điều nói xấu.
68. Rửa sạch mối giận lớn.
69. Phần mặt phẳng nhô ra ngoài hiên, xung quanh có lan can. Âm khác là bao lơn.
70. Áo giáp có một miếng cứng đệm ngực.
71. Tụ hợp lại làm điều bất chính, nhưng ở đây là từ mang nghĩa tốt.
72. Nhân chỗ trống, thừa lúc sơ hở.
73. Duy trì cái cũ.
74. Chẳng biết phải làm sao.
75. Trằn trọc.
76. Nhánh quân.
77. Quân do thám.
78. Năm 201 sau Kỷ nguyên, tra lịch pháp thì nhằm năm Tân Tỵ, năm 210 mới là năm Canh Dần.
79. Lông chim trả.
80. Ngà voi.
81. Lệ chi là quả vải. (*)
82. Người cha đã khuất.
83. Lời tuyên thệ.
84. Viên chức sơ cấp thời phong kiến.
85. Đơn vị hành chính thời trước.
86. Tính kế lâu dài.
87. Cũng nói giở giói, bày vẽ thêm.
88. Công thần khai quốc nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.
89. Chiểu theo sự thương lượng, bàn bạc.
90. Âm Hán Việt, ý nói kết thúc.
91. Lời khuyên bảo.
92. Nằm sóng sượt.
93. Xuất xử: kẻ sĩ ra làm quan hoặc lui về ở ẩn.
94. Thăng tiến nhanh.
95. Đề bạt, cất nhắc.
96. Chứng cứ thực.
97. Nơi giam hãm, ý ở đây là dùng kế để giam lỏng, giám sát.
98. Hay dầm đỡ (một dạng kết cấu trong xây dựng).
99. Dụng cụ làm bằng ống tre nhỏ, đẽo nhọn hai dầu để xóc lúa, rơm.
100. (từ cũ) Cha mẹ.
101. Chim cùng họ sáo, lông đen mượt, hai tai có vệt trắng, sau mắt có hai mẩu thịt vàng, bắt chước được tiếng người.
102. Đồ đựng bằng sành, hình trụ, thân hơi phình, đáy lồi.
103. Dụng cụ thời cũ dùng để đo lường chất hạt rời, phần mười của đấu, khoảng bằng một lít.
104. Cách nói tắt, ý nói con cá sấu.
105. (hay giày) giẫm đi giẫm lại.
106. Đẫm.
107. Ký thác, gửi gắm.
108. (từ cũ) biểu thị ý nghi ngờ.
109. Dòm ngó, nghe trộm.
110. Thời kỳ xa xưa nhất trong lịch sử loài người.
111. Từng đống.
112. Cân nhắc, đắn đo.
113. Thông báo.
114. Khuyên.
115. Ý nói đảng thuộc địa phương đứng ra khởi binh.
116. Vậy nên.
117. Lợi dụng việc công để mưu lợi.
118. Người đầy tớ già.
119. Nắm thật chặt, không buông.
120. Cởi.
121. Hai thích khách nổi tiếng bậc nhất thời Xuân Thu Chiến Quốc.
122. Chặt bằng vật có lưỡi sắc.
123. Hiệp.
124. Vươn dài để với.
125. Lấy nhàn để đối phó với mỏi mệt.
126. Ngay thẳng, đứng đắn.
127. Vạt trước áo.
128. Lẩm bẩm.
129. Hưởng ứng.
130. Hay ro ró, ru rú.
131. Cờ xí.
132. Nói rõ quyết định, ý nghĩa của việc cần làm.
133. Mưu sâu lo xa.
134. Tụ tập đông đảo.
135. Quay lại.
136. Có thù với nhau.
137. Để lại, lưu lại lâu.
138. Gậy lớn, hai đầu bằng nhau dùng làm khí giới.
139. Nhô ra, thò ra.
140. Dao quắm.
141. Nơi canh gác đầu làng.
142. Cây cùng họ dâu tằm, lá có răng cưa, cứng và sắc, thường trồng làm hàng rào.
143. Phương ngữ, ý nói kém.
144. Thiêu cháy đen thui.
145. Người ở.
146. Một loại vũ khí, dùng để bắn tên, gần giống nỏ.
147. Nhẵn nhụi.
148. Ôi! Hiền thê! ...Hiền thê hay ác phụ?! (*)
149. Ý nói quyên góp, ủng hộ.
150. Trận pháp trong binh pháp cổ đại Trung Quốc, còn có tên gọi là Ngũ hành trận. Nó dựa theo thế trận biến hóa của Ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ).
151. Trận pháp dùng để tu luyện Bộ Liên Hoa. Chia làm hai loại lớn nhỏ. Tiểu Liên Hoa trận do 16 mộc nhân tạo thành, đại Liên Hoa Trận có 64 cái, sắp xếp theo bố cục bát quái.
152. Cởi.
153. Âm khác của trình.
154. Dân binh miền núi.
155. Thu nhận, nạp dụng.
156. Chuyển giao lương thực.
157. (từ cũ) người phụ nữ có tài.
158. Đường dẫn nước hẹp và nông hoặc chỗ sâu nhất của dòng sông.
159. Rúc vào.
160. Cầu treo.
161. Bình đựng rượu bằng sành, thân phình to, cổ dài.
162. Đi chơi không có mục đích.
163. Tức mộc khiên.
164. Cầu phao.
165. Tin báo thắng trận.
166. Quân tuần tra để giữ gìn an ninh.
167. Âm khác của bao vây.
168. Đi một cách nhanh chóng.
169. Dùng, sử dụng.
170. Vua Bà Lệ Hải. (*)
171. Tức Mê Linh.
172. Đem gông cổ rồi áp giải đi.
173. Ý là nên dùng mưu, không thể dùng sức.
174. Khởi hành ngay trong ngày.
175. Sấm nhanh không kịp bịt tai, xuất kỳ bất ý, hành động bất ngờ khiến đối phương không kịp trở tay.
176. Quản Trọng, Nhạc Phi hai nhà quân sự nổi tiếng Trung Quốc.
177. Lượm lúa nhỏ được buộc gọn lại.
178. Con đỏ.
179. Chết do giặc giết.
180. Lấy yếu thắng mạnh, lấy nhu khắc cương, thật thật giả giả.
181. Đi theo, theo về.
182. Đường lui.
183. Rầy rà, phiền phức.
184. Lo lắng.
185. Chặn đánh.
186. Chạy trốn tìm đường thoát chết.
187. Do dự, chưa quyết định dứt khoát.
188. Đánh chặn ngang.
189. Nay là làng Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa
HẾT.
|
|
|
 |
|
10.11.2022, 21:42 |
|
Thành viên mới
|
|
Ngày tham gia: 10.11.2022, 21:30 Tuổi: 29 Bài viết: 1 Được thanks: 0 lần
|
|
 Re: [Xuất bản - Lịch sử] Vua Bà Triệu Ẩu - Nguyễn Tử Siêu
Cám ơn tác giả, đúng tư liệu mình cần tìm
|
|
|
|
|
|
Trang 2/2
|
[ 16 bài ] |
|
Không có thành viên nào đang truy cập |
|
|
|
Bạn không thể tạo đề tài mới Bạn không thể viết bài trả lời Bạn không thể sửa bài của mình Bạn không thể xoá bài của mình Bạn không thể gởi tập tin kèm
|
|
|
1 •
[Xuyên không - Trùng sinh] Cùng trời với thú - Vụ Thỉ Dực
1 ... 60, 61, 62
|
2 •
[Hiện Đại] Sơn Nam Hải Bắc - Parace
1 ... 5, 6, 7
|
3 •
[Hiện đại] Mẹ 17 tuổi Con trai thiên tài cha phúc hắc - Trình Ninh Tĩnh (phần 1)
1 ... 68, 69, 70
|
4 •
[Xuyên không - Điền văn] Nông kiều có phúc - Tịch Mịch Thanh Tuyền
1 ... 55, 56, 57
|
5 •
[Xuyên không - Dị giới] Thiên tài triệu hồi sư - Nhược Tuyết Tam Thiên
1 ... 80, 81, 82
|
6 •
[Hiện đại - Trùng sinh] Gia khẩu vị quá nặng - Hắc Tâm Bình Quả
1 ... 47, 48, 49
|
7 •
[Xuyên không - Dị giới] Phế sài muốn nghịch thiên Ma Đế cuồng phi - Tiêu Thất Gia - Hoàn
1 ... 68, 69, 70
|
8 •
[Xuyên không] Cuộc sống điền viên của Tình Nhi - Ngàn Năm Thư Nhất Đồng
1 ... 53, 54, 55
|
9 •
[Cổ đại - Trùng sinh] Đích nữ vô song - Bạch Sắc Hồ Điệp
1 ... 35, 36, 37
|
[Xuyên không - Huyền huyễn] Triệu hoán sư khuynh thành - Vô Ý Bảo Bảo
1 ... 53, 54, 55
|
11 •
[Hiện đại] Quân hôn Tổng giám đốc thô bạo của tôi - Nam Mịch
1 ... 42, 43, 44
|
[Cổ đại - Trùng sinh] Trọng sinh cao môn đích nữ - Tần Giản
1 ... 40, 41, 42
|
13 •
[Hiện đại] Ảnh hậu làm quân tẩu - Đông Nhật Nãi Trà
1 ... 21, 22, 23
|
[Cổ đại - Trùng sinh] Đích trưởng nữ - Hạ Nhật Phấn Mạt
1 ... 25, 26, 27
|
[Cổ đại - Trùng sinh] Tướng phủ đích nữ - Trầm Hoan
1 ... 35, 36, 37
|
16 •
[Hiện đại] Hôn trộm 55 lần - Diệp Phi Dạ
1 ... 69, 70, 71
|
[Hiện đại] Hào môn tranh đấu I Người tình nhỏ bên cạnh tổng giám đốc - Hàn Trinh Trinh
1 ... 144, 145, 146
|
18 •
[Hiện đại] Hào môn thừa hoan Mộ thiếu xin anh hãy tự trọng! - Mộc Tiểu Ô
1 ... 58, 59, 60
|
19 •
[Xuyên không - Cung đấu] Thế nào là hiền thê - Nguyệt Hạ Điệp Ảnh
1 ... 11, 12, 13
|
[Xuyên không] Nắm tay người kéo người đi - Thiên Hạ Vô Bệnh
1 ... 11, 12, 13
|
|
Shop - Đấu giá: ChieuNinh vừa đặt giá 200 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Thiên Yết vừa đặt giá 210 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Thiên Yết vừa đặt giá 210 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Thiên Yết vừa đặt giá 210 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Mẹ Bầu vừa đặt giá 201 điểm để mua  |
Achima: Không đc cấp phép đọc truyệ |
hung_ho: AC cho hỏi có phải tính năng đọc truyện trên diễn đàn bị lỗi ko |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 207 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 201 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 201 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 259 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 220 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 201 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 235 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 201 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 337 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 200 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 201 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 200 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 237 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 200 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 201 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 201 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 200 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 201 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 277 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 257 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 272 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 200 điểm để mua  |
Shop - Đấu giá: Lục Bình vừa đặt giá 208 điểm để mua  |
|
|
|